Tuesday, June 15, 2010

Ký Ức Một Thanh Niên Hà Nội Về Ngày 30-4-1975

Bạn đang ở đâu? Làm gì trong cái ngày 30-4-1975? Có thể ngày đó là ngày chào đời của một em bé (mà giờ đây em bé đó đã con cái đầy nhà), hoặc là lúc chấm dứt sinh mệnh của một con người như trường hợp của Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Nguyễn Văn Long. Tất nhiên người đó không thể ngồi kể cho chúng ta nghe về những giây phút... lịch sử khi đấy nhưng bạn bè, thân nhân bên cạnh vẫn có thể kể lại. Võ Văn Kiệt, một lãnh tụ Việt Cộng khi hồi ức lại cái ngày lịch sử này đã nói: " 30 tháng Tư năm 1975 có hàng triệu người vui thì cũng có hàng triệu người buồn ". Bùi Tín, một cựu sĩ quan CS Bắc Việt trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên (ICCS) đã chua chát: "... tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa 30-4, vớ vẩn, lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết ".
Bài dưới đây là tâm tình của anh H, một người bà con trong họ đã kể cho nghe, PTV chép lại.
Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi đang ngồi trong căng tin của nhà máy Hoá Chất Việt Trì thì tai nghe những tiếng la hét ầm ĩ vui nhộn từ phòng thông tin của Công Đoàn nhà máy. " Thắng rồi... Ta thắng rồi... Dương Văn Minh đầu hàng rồi... ", tôi bỏ dở cốc nước chè và cùng vài người chạy vội ra xem chuyện gì. Một nhóm công nhân đang vây chung quanh anh Minh, thư ký Công Đoàn cho biết tin vừa nhận được qua đài Tiếng Nói Việt Nam là quân ta đã chiếm được Dinh Độc Lập, bắt Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng. Nghe vậy, những tiếng hét lớn vui mừng một lần nữa lại vang lên. Những ngày trước đây, kể từ sau trận đánh vào Buôn Mê Thuột, Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh của nhà máy đã làm một áp phích lớn vẽ bản đồ của 44 Tỉnh miền Nam Việt Nam Cộng Hòa và dựng nó gần cổng ra vào. Trên tấm áp phích đó, cứ mỗi khi được tin quân ta giải phóng thêm tỉnh nào thì lập tức tỉnh đó được vẽ một lá cờ Đỏ sao Vàng ngay. Tôi đã thấy càng lúc càng nhiều lá cờ Đỏ sao Vàng xuất hiện trên tấm áp phích chỉ trong một thời gian ngắn đến nỗi phải hoài nghi, dù không nói ra mặt. Bây giờ, điều nghi ngờ đó đã thật rồi, mừng quá đi. Thôi từ nay là hết chiến tranh và những thanh niên miền Bắc sẽ không còn phải xuôi Nam chiến đấu trong chiến trường B nữa. Và điều quan trọng tôi sẽ gặp lại người cha ruột đã xa cách gia đình tới 21 năm rồi. Hôm đó, như để cùng chào mừng với niềm vui lớn của đất nước, trừ những khâu cần phải vận hành máy chạy liên tục còn tất cả các khâu lao động trong các phân xưởng và các phòng ban khác được ban lãnh đạo nhà máy cho nghỉ việc sớm để mang tin vui về cho gia đình biết. Tôi phóng nhanh xe đạp về nhà báo tin cho mẹ tôi biết ngay tin vui này.
Về đến nhà, dắt xe vào trong, chưa kịp khoe tin thì mẹ tôi đã nói: " Sao nay con về sớm vậy? Bộ đội vào tới Sài Gòn rồi con biết chưa? ". Tôi trả lời mẹ là đã biết, được nhà máy cho về sớm định kể mẹ nghe đây. Mẹ tôi ngồi ở bàn sát cửa sổ như đang suy nghĩ điều gì. Tôi cởi áo đi ra giếng nước sau nhà múc nước tắm sau đó quay trở vào mà vẫn thấy mẹ tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bước lại bên bà, hỏi: " U sao vậy? " và đặt tay tôi lên trán bà, tiếp: " U cảm hay sao nói cho con biết với ". Nhưng bà nhìn tôi, miệng cười mỉm, trả lời:
- Không con. Mẹ khoẻ mà... có điều mẹ đang nghĩ về thầy con thôi. Không biết thầy con bây giờ trong đó đang như thể nào?
Nghe thế, tôi đi mở cái tủ gỗ gụ cũ, lục lọi rồi lấy ra tấm ảnh đen trắng chụp chân dung cha tôi đã cũ, ố vàng. Quên nói, mẹ tôi thường gọi cha tôi bằng Thầy và tôi gọi mẹ bằng U. Trong ảnh, một người đàn ông mặc bộ đồ trận rằn ri, ánh mắt nghiêm nghị, đứng cạnh lề đường một khu nào đó trong thành phố Sài Gòn của miền Nam. Tấm ảnh này là tấm duy nhất, gia đình nhận được từ cha tôi, khi hai miền Nam-Bắc còn liên lạc được bằng thư từ.
Cha tôi, một chiến binh trong lực lượng Dù thuộc quân đội Liên Hiệp Pháp. Những ngày cuối cuộc chiến năm 1954, đơn vị ông được máy bay thả xuống tiếp sức cho căn cứ Điện Biên Phủ đang bị vây hãm để không lâu sau đó, căn cứ nầy lọt vào tay bộ đội Việt Minh. May mắn thoát chết, bị bắt làm tù binh rồi ông được trả tự do và theo đơn vị quay về Hà Nội. Những ngày cuối của Hiệp Định Geneva, ông đã cho người về quê Sơn Tây đón mẹ con tôi lên để cùng ông vào miền Nam nhưng chuyện không thành, ông phải theo đơn vị vô Sai Gòn trước. Thực ra chuyến đi ra Hà Nội khi đó, đoàn người làng có hai mẹ con tôi đã bị cán bộ Việt Minh lừa đưa vào tạm trú trong khu rừng vắng. Khi đoàn người được phép ra khỏi rừng thì thời hạn di cư đã qua, gia đình bị chia cắt từ đó lúc tôi mới được gần một tuổi.
Hai mẹ con quay trở về Hà Nội sống trong gian nhà của ông ngoại tôi. Là dân thành thị, mẹ tôi biết cắt may quần áo rất khéo và nhờ cái tài này mà bà đã nuôi tôi ăn học. Tôi được nghe kể là các cán bộ đã tìm bà để đặt may quần áo cho họ rồi khi các Hợp Tác Xã May Mặc giải thể, bà đã tìm mua sở hữu thực thụ được một máy may cũ và nhờ vậy mà cuộc sống đỡ vất vả so với nhiều người khác. Tuổi ấu thơ của tôi gắn liền với thành phố Hà Nội từ những làn sương mờ buổi ban mai trên mặt Hồ Tây, mùi không khí đường phố quyện với lá cây sau các cơn mưa rào. Những buổi trưa mùa Hè, trốn mẹ đi chơi, tôi cùng chúng bạn kéo nhau lang thang vào vườn bách thú, quanh bờ hồ hoặc trèo lên những cây bên vệ đường để tìm bắt các chim non trong tổ. Có khi rình ném đá vào nhà hàng xóm buổi nghỉ trưa để rồi cả bọn ù té chạy khi chủ gia mở cửa ra nhìn. Khi tuổi lớn hơn, tôi mới nhận ra những khác biệt giữa mình và các bạn đồng trang lứa mỗi lần nghe chuyện chiến tranh về miền Nam. Có những buổi sinh hoạt chung mà người phụ trách không cho tôi tham dự. Lúc đó, tôi cũng không hiểu tại sao? Có khi về hỏi mẹ thì bà chỉ nói: " Thôi con, họ không cho thì về nhà với mẹ ". Rồi những năm chiến tranh lan ra miền Bắc. Máy bay Mỹ ném bom nhiều nơi và ngay ở cả Hà Nội nữa. Những đợt bom chùm tuốt từ trên mây rải xuống đã phá huỷ nhiều khu phố lớn. Cảnh người chết mất xác trong các đống gạch vụn cùng lửa khói cháy nghi ngút khiến ai cũng sợ. Đành phải kéo nhau đi sơ tán về các miền quê cho an toàn. Hai mẹ con tôi về quê nội trong một làng ở tỉnh Sơn Tây cũ. Đây là vùng bán sơn địa có ruộng có vườn cùng các núi đồi rất đẹp. Trong làng có nhiều đứa thiếu niên trạc tuổi tôi và tôi rất muốn làm bạn cùng chơi với chúng nhưng họ không thích tôi ra mặt. Trẻ em đã vậy mà người lớn cũng nói xấu, dèm sau lưng mẹ tôi mỗi khi họ gặp mặt nhau trên đường hoặc trong phiên chợ. Tôi đành kết bạn với mẹ thôi, không ai khác.
Đến tuổi trưởng thành, thấy nhiều thanh niên xung phong vào bộ đội, tôi cũng giơ tay xung phong nhưng bị cán bộ trong Ban Tuyển Quân từ chối. Tuổi thanh niên, hình ảnh người lính với cây súng cuốn hút tôi lắm nhưng họ không nhận thì đành chịu. Về kể lại cho mẹ tôi biết, bà chép miệng nói làm sao họ cho con vào bộ đội được rồi trách khẽ: " Có mỗi một mình mẹ mà con định bỏ đi sao! ". Tôi rất chật vật khi xin một việc làm. Đơn gửi tận tay nhiều nơi mà không hề có chút hồi báo làm tôi buồn. Không lẽ thân đã lớn lại cứ để mẹ phải nuôi mình mãi nhưng đi xin việc không ra. Tôi có lúc nhủ thầm chắc số mình đến phải làm ruộng nhưng ruộng, nhà cũng không có. May mắn làm sao, mẹ tôi tình cờ gặp lại một người bạn học cũ với bà năm xưa khi còn trẻ. Người này nay là một cán bộ cao cấp và nhờ sự giúp đỡ của ông ta, tôi đã vào làm việc trong nhà máy Hoá Chất Việt Trì. Rồi cũng nhờ ông ta giúp mà tôi mới được công đoàn nhà máy phân cho một phòng nhỏ trong khu tập thể. Tôi đưa mẹ lên đó cùng sống chung.

Bộ đội mua hàng chợ trời vỉa hè ở miền Nam.
Hai tháng sau cái ngày chiến thắng, mẹ tôi về lại Hà Nội để dò hỏi tung tích cha tôi. Trong họ hàng bên nội, có người vào miền Nam công tác và qua đó đã tìm được các thân nhân theo các địa chỉ cũ năm xưa. Khi quay trở lại miền Bắc, người bà con này gặp bà và cho biết các tin tức về cha tôi. Theo đó, ông là một sĩ quan quân đội cao cấp của chính quyền miền Nam và đã phải bị học tập cải tạo. Thêm một tin nữa, ông đã lập gia đình khác và có được hai người con gái. Quay về nhà, mẹ tôi cho biết tin và khi kể chuyện, không hiểu vì nghĩ đến việc học tập cải tạo rồi liên tưởng những cảnh tù tội của cha tôi năm xưa lúc bị bắt làm tù binh hay vì cám cảnh thân phận mà mẹ tôi khóc rất nhiều.
Tôi dỗ mẹ đừng khóc nhưng rồi tôi cũng khóc theo mẹ.
Mẹ tôi rất muốn đi vào miền Nam ngay để biết thêm các tin tức về cha tôi nhưng khi đó giao thông hai miền còn khó khăn lắm, vẫn còn hạn chế chỉ ưu tiên cho những cán bộ đi công tác. Đường xuyên Việt nhiều nơi phải sửa chữa và đường sắt nhiều vùng đã mất hẳn từ lâu. Chiến tranh bao năm trời đâu phải một sớm một chiều thông đường ngay được. Cơn háo hức vào miền Nam để tìm gặp cha tôi cùng gia đình riêng của ông cũng dần nguôi ngoai trong lòng mẹ tôi. Tôi vẫn tiếp tục đi làm, cũng không hề nghĩ là có ngày mình đặt chân vào miền Nam và thành phố Sài Gòn. Đó là nhà máy Hoá Chất Việt Trì tổ chức một cuộc họp lớn có sự tham dự của cán bộ Tổng Cục Hóa Chất từ trung ương về chủ trì. Theo đó, nhà nước cần khá đông cán bộ và công nhân viên trong ngành xung phong vào tiếp quản các nhà máy hóa chất ở miền Nam. Tin về một xã hội miền Nam đói nghèo, lạc hậu do chính miệng những bộ đội miền Bắc từ chiến trường miền Nam trở về phục viên kể lại trong các tháng trước đã làm con số người xung phong chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng sợ khổ, sợ phải xa gia đình để đến công tác trong vùng đất đói nghèo đến nỗi cả bát ăn cơm cũng còn thiếu. Không ai chịu tình nguyện xung phong nên lãnh đạo nhà máy phải họp và xét hoàn cảnh riêng từng người một để chỉ định bắt buộc. Tên tôi đã được họ chọn, đành phải chuẩn bị hành lý để theo đoàn vào Nam dù tôi không muốn.
Đường sắt vẫn chưa sửa xong, chúng tôi 18 người ngồi nằm chung với hành lý trong chiếc xe tải Molotova cũ kỹ của đoàn xe vào miền Nam. Trên xe tuy mệt nhưng có cái thú ngồi ngắm cảnh hai bên dọc đường. Chúng tôi qua nhiều vùng, địa danh trước giờ chỉ nghe tên trên báo trên đài. Hố bom, cầu sập, đường bị bóc từng tảng nhựa, các khu dân cư, chợ... xuất hiện đây đó dọc theo các đoạn đường xe qua. Ở các vùng xa thủ đô, người dân lam lũ, nghèo khổ, thiếu thốn lộ rõ trên ánh mắt, quần áo và khung cảnh sống. Miền Bắc quê hương xã hội chủ nghĩa còn như vậy thì miền Nam bị kềm kẹp chắc chắn phải nghèo, thiếu thốn ghê gớm. Tất cả cũng do chiến tranh, do đế quốc Mỹ reo rắc mà ra... , người đi chung trên xe kết luận.

Một khu phố ở thủ đô Hà Nội trong dịp bán hàng tiêu chuẩn Tết.
Xe vừa vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới. Một khung cảnh khác lạ với miền Bắc. Nhà cửa, người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường... gần các trục lộ giao thông trông đẹp và văn minh hơn hẳn. Đi rồi nghỉ ngơi rồi đi tiếp cho đến khi đoàn xe đến được khu công nghiệp Biên Hoà. Có quá nhiều nhà máy tại đây. Đoàn 18 người chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc từng dãy nhà máy trong khu vực này và tuy không ai nói với ai nhưng đều trầm trồ trước nền công nghiệp miền Nam. Rồi chúng tôi được phân công vào công tác trong một nhà máy có cái tên VICACO. Một nhà máy sản xuất chất Sút (NaOH) từ muối biển và cả Acid Chlohidric (HCL) nữa. Một nhà máy bề ngoài trông rất nhỏ mà không ngờ bên trong lại lắp đặt các máy móc tối tân, sản xuất được các hóa chất với sản lượng, hàm lượng độ tinh khiết rất cao gấp nhiều lần so với cùng công nghệ tại miền Bắc. Chúng tôi ngạc nhiên và ngầm thán phục trong bụng. Nhìn những công nhân miền Nam đang lao động tại đây rồi sau đó làm việc chung với họ, tôi mới thấy người dân miền Nam khác xa người dân miền Bắc. Kiến thức chuyên môn và xã hội của họ hơn hẳn chúng tôi. Kỹ sư hơn hẳn kỹ sư, chuyên viên hơn hẳn chuyên viên của miền Bắc gửi vào và ngay cả lực lượng công nhân cũng vậy. Một sự rụt rè, cẩn thận từ lời ăn tiếng nói tự nhiên nẩy sinh trong đoàn tiếp quản chúng tôi. Ai cũng sợ người trong nhà máy VICACO này biết trình độ thực sự của cả đám. Sợ họ cười, nỗi lo chính trong lòng vì dầu gì mình cũng thuộc phía người chiến thắng. Về nằm nghỉ trong dãy phòng mà được biết trước đây là chỗ dành cho công nhân ngủ qua đêm nếu phải ở lại tăng ca, tôi suy nghĩ xã hội miền Nam không hề lạc hậu về công nghệ về con người... như lời nói trước giờ vẫn được nghe. Ngay cả trong buổi họp khi chọn người vào tiếp quản, cán bộ ngành Hóa từ trung ương cũng đã khẳng định như vậy khi động viên cán bộ công nhân viên tình nguyện. Những căn phòng nghỉ nào cũng đầy đủ tiện nghi từ các trang bị như bàn ghế, giường ngủ, quạt trần nhà, phòng vệ sinh, đèn chiếu... Ở đây, trong chỗ khép kín của khu công nghệ còn được như vậy thì trong thành phố Sài gòn chắc chắn phải rất đẹp. Tôi cũng chưa nghĩ mình sẽ ra sao khi tìm gặp được hai cô em gái tôi, thật khó tưởng tượng.
Rồi một ngày tôi theo đoàn vào làm các thủ tục công tác trong một toà nhà mà Tổng Cục Hoá Chất vừa tiếp quản nay trở thành trụ sở của Công Ty Hóa Chất Cơ Bản miền Nam mới thành lập nằm gần chợ Bến Thành. Lần đầu tiên trong đời tôi biết đến thang máy khi lên một phòng tuốt trên tầng thượng. Khi làm xong các giấy tờ và thủ tục tạm trú, chúng tôi được phép thoải mái đi thăm phố xá sau lời căn dặn của một thủ trưởng: " Các đồng chí phải bình tĩnh trước mọi tình huống, luôn nhớ chúng ta là kẻ chiến thắng, phải đánh giá chính xác những gì trông thấy ở xã hội miền Nam ". Ngay từ lúc còn ngồi trên xe buýt, nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài Gòn tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam. Giờ đây đi bộ trên các con đường trong khu trung tâm thành phố mới thấy bản thân tôi, một người dân miền Bắc quá sức lạc hậu, nghèo nàn... từ bộ cánh (quần áo) trên người cùng vẻ luống cuống như dân quê lần đầu ra tỉnh. Tôi rõ ràng xa lạ với các tiện nghi đang được người dân trong thành phố này sử dụng. Bên vệ đường và trong các cửa hiệu sang trọng đầy ắp hàng hoá thật đẹp và mới lạ lần đầu chúng tôi được thấy. Ai có tiền cứ việc vào mua thoải mái khác hẳn với cảnh chen chúc để chờ được tới lượt mua số hàng ít ỏi như cảnh thường thấy ở các khu phố ngoài miền Bắc. Phố xá thì thôi, những tòa nhà to đẹp thấp thoáng sau dòng xe gắn máy chạy hối hả trên đường. Khung cảnh y như ở nước ngoài, một người trong đoàn chúng tôi nói nhỏ cho nhau cùng nghe. Tôi bối rối ngắm nhìn các cô gái miền Nam nói chính xác là cô gái Sài Gòn đang dạo bước trên đường. Họ đẹp quá sức, như tiên... từ dáng điệu, mái tóc, y phục mặc trên người và nhất là khuôn mặt của họ lộ rõ vẻ sung túc đài các so với những nữ cán bộ trẻ trong đoàn chúng tôi. Tôi mỉm cười, nghĩ thầm hai cô em gái tôi trong này cũng vậy. Tôi âm thầm tách ra khỏi đoàn để tự mình đi theo ý muốn. Rảo qua nhiều con phố Sài Gòn rồi thấy mỏi chân, tôi lấy can đảm bước vào một hàng nước thật đẹp gần một giao lộ lớn, có tên là Cafe Minirex. Chọn một bàn sát khung cửa kính trong suốt có thể nhìn rõ người đi bên ngoài, tôi quan sát chung quanh. Bàn ghế, các bình hoa, quầy thu ngân, khách cùng vách tường trang trí cảnh một rừng cây thật đẹp... thật không khác một tiệm ở nước ngoài trong phim ảnh. Chợt một người hầu bàn bước đến, gật đầu chào tôi rồi niềm nở hỏi:
- Thưa ông, ông dùng chi?
Trời ơi! Người hầu bàn này quá lịch sự khi tiếp xúc với khách hàng thật khác hẳn với cung cách của mậu dịch viên trong các tiệm ăn ngoài miền Bắc. Tôi lại nghĩ, hay ông ta biết tôi là cán bộ chế độ mới qua quần áo mặc trên người nên xưng hô như vậy? Tôi gọi nước uống và ngầm để ý xem sao. Nhưng không, bất cứ có khách nào vào quán, người hầu bàn này cũng một cách tiếp đón như vậy. Rất tự nhiên, lịch sự mà không khúm núm hoặc hách dịch.

Một đường phố trong Sài Gòn.
Một thay đổi đã đến trong lòng tôi mà tôi biết điều này cũng sẽ đến với bất kỳ người nào từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa khi đặt chân vào miền Nam ở thời kỳ đó. Sài Gòn hay nói rộng ra cả miền Nam của chế độ Việt Nam Cộng Hòa không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo chí, đài phát thanh Hà Nội... mô tả về con người và xã hội của chế độ Ngụy quyền-tay sai đế quốc Mỹ. Đây là mô hình của một xã hội văn minh và người Việt nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc. Một xã hội như vậy lại vừa bị người bên phía chúng tôi cướp mất đi. Tiếc thay!
Phạm Thắng Vũ
May 01, 2010.
(Viết để nhớ lại ngày 30-4-1975.)
Grand Rapids, Michigan.

Monday, June 14, 2010

Người Con Dâu Của Nước Mỹ

Lưu Hồng Phúc
***
Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được.
Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vôi vã đi ngay.
Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô.
Con đương Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa màu tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây.
Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích được đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.
Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.
Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tỉa thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế , anh chàng Mike râu ria xồm xoàm đã chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nền nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng , áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia.
Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị.
Về sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu , khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục , bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người . Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng.
Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không,chị từ chối ra đi chỉ bởi vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ.
Tôi không giống, và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng đươc bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời..
..Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà ta vừa mới khóc. Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn.
-Ông bà từ đâu tới.
- Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
- Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.
-Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi,Tàu, Nhật hay Thái lan.
-Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
-Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới. Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến phi lý đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc.
Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuồng ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mike Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mike người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn anh được gắn lon giữa hai hàng nến . Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ.
Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana . Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngôi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá. Gặp lại nhau tôi lên tiếng.
-Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này..
Ông ôn tồn giải thích.
-Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.
Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông.
- - Con trai của ông bà tên là gì nhỉ . Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
- - Con trai tôi tên là Mike Wright, Tử trận ở Việt năm năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này.
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
- Anh Mike của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.
- Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mike còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua là ông trông rất giống Mike ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
-Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mike đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt.
- Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.
- Mike có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mike nào khác nữa nên chỉ nói với ông.
-Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mike Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mike con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mike Wright một lần trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
-Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mike Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mike trong những ngày cuối cùng.
-Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà. Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mike . Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
-Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mike rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mike thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.
-Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mike , không biết ông bà có muốn nghe không.
-Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mike và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
- Chị tôi có một người con với anh Mike . Chính anh Mike cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mike và chồng tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
-Chúa ơi, thật thế sao. Chúa ơi. Chúa ơi.
-Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mike lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
-Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
-Cháu vẫn còn ở Việt Nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị hay không.
Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa. Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích.
- Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie , em gái của Mike và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm , đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
-Đúng là chị tôi rồi.
-Ông bà Wright mừng vui như mở hội.Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở. Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này.
Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chi cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mike nên không ngạc nhiên với quyết định này.
Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.
Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông Bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không dấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
- Oh my God, he looks just like his father! Oh my God!
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.


LƯU HỒNG PHÚC




-------------------------------------




The Daughter-in-law from Vietnam


PATTY LUU NGUYEN (Luu Hong Phuc)
translated from the Vietnamese by Pham Truong Long & Le My An
*
April is a time of unhappy reminiscences for me. Since that April of 1975, ill fate would have it that I no longer have a homeland. My cherished memories have become nothing more than bygones of a former day. As I was buried deep in my thoughts, a friend came and asked me to join a group for a trip to Washington D.C., to watch the cherry trees break into blossom. And above all, to see the black granite wall where the names of some more than 58,000 American soldiers who had lost their lives defending freedom in my former South Vietnam are preserved.
I have often heard of the glorious cherry blossoms at the U.S. capital, once given as a gift from the Imperial Court of Japan to the people of the United States, trees whose blossoming flowers show all their beauty when the spring comes. What a joy in longing for this moment--how forlorn I had been in my youthful days, waiting for the opportunity to see those real cherry blossoms, and the name of a specific person at the Vietnam Veterans Memorial.
So I did not hesitate for a single minute and took the invitation. From Texas, we spent more than twenty-four hours in the car before we finally arrived at the U.S. capital. Along the Potomac River, on the Ohio Avenue, blossoming cherry flowers turned into a mixture of rose and white. The cold air remaining of the long winter still lingers, and can be seen on frosted boughs here along Constitution Avenue, where the black reflecting walls stand, serene and mournful.
It's April. The cherry blossoms have been underway for some time. The dead flowers make the whole area around the avenues along the park turn pink. Here they are, the real cherry flowers. The very beautiful flowers I once only knew in the movies, always with deep silent admiration for the samurais of Japan, who in all loneliness swung their swords; the flowers that fell into the snow-covered ground, are now showing all their beauty before my eyes. I left my group and walked alone under the trees. I love such a stroll when I am alone and free to wander into the past.
Before South Vietnam was thrown into the hands of the communists in 1975, my family had a quiet and happy life. My husband, a combat soldier, used to take an American soldier home with him. An adviser and friend in his unit, when they were on leave. The two worked alongside each other and shared not only the same military duties, but many things in common in their private lives. I did not know much about America then, except for the vague depictions of the north-central region of the U.S. where Mike Wright had come from-- he looked like a bohemian with his unshaven beard, threadbare and heavy from the restless days of war. I could not help but think of the unaffected generosity of the Americans. They had brought in masses of aid, even risking their own lives to help my country; thus, it was not difficult for the bearded Mike to easily win over the affection of my family, nor my older sister. The wedding ceremony was like a promising spring for my sister and her newly wedded husband. Of tradition, they wore the áo dài, standing perfectly matched side by side in the ceremony.
Since that day, I was no longer lonesome every night. My sister was now in the same situation. We had lived long days full of worries, but also wonderful days of reunion. It seemed that happiness was never-ending, but I was wrong, because an unforgettable day was soon approaching. On that day, the local commander of the unit gave me the news that my husband and the rest of his unit would not be coming home again. My amiable American brother-in-law would not be coming home either. A most valiant unit, which had known no defeat on the battlefields before, was literally wiped out somewhere in Lower Laos during the infamous Mua He Do Lua - in that bloody, scorching Red Summer of 1972.
My sister and I were thrown, all of a sudden, into the worst nightmares - hers was of her pregnancy, of which her husband had not been aware.
After South Vietnam fell to the communists from the North, all hell broke loose upon us. With an Amerasian child, she endured all sorts of excruciating punishments and despicable calumnies of discrimination by the new ruling people. Mistreated, humiliated and threatened to be sent to the so-called "human dignity restoration camps," she still endured and worked to raise her child in spite of cruel adversities. What struck me the most was the more than ordinary love my sister had for her husband. She always talked of him in the most respectfully affectionate way, with the deep sorrow of a widow mourning for her beloved; she had never demanded anything whatsoever of him, or of his home in America.
When the resettlement program for Vietnamese Amerasian children came into effect, I thought she was happy. But I was wrong. She did not want to leave our native country, to which she was still very much attached. Her son obliged her and kept by her side in Vietnam. My endurance was unlike hers; I could not stay. Deciding to take back a life of freedom, I left the country with my children. As our small frail boat took us into the sea, I pleaded in prayer that it was the right decision.
As I was pursuing my thoughts along the avenue full of flowers, I reached the black granite wall unawares. The rows of names in white gradually became visible down the sloping-path. I noticed an old American couple walking hand-in-hand, shakily climbing the steps. The woman's eyes were still red-wet, seemingly from weeping. I came to meet them at the first step and greeted them:
- Where are you from?
- We're from Ohio. And yourself?
- I'm from Texas.
The man, with his well-kempt beard, asks me with a warm-hearted smile:
- I mean from which country. The Philippines, Japan, Thailand?
- I am Vietnamese, Sir.
Suddenly, the woman's face flushed, and with fit of rage, she climbed the steps ahead. I was astonished and looked at the man expecting an explanation from him about the strange behaviour of his wife. Most Americans I knew did not openly show their uneasy feelings. Perhaps something was wrong.
The man seemed to have read my mind. He turned to me and explained:
- Please don't be offended by the behaviour of my wife. We have lost our only son in Vietnam. That's why she's so affected whenever she meets somebody from Vietnam. She's been unable to control her emotions and brash attitudes.
I look at the woman now sitting on a stone bank along the alley. With trembling hands firm on her lap, she looks without emotion into the empty space in front of her. I do not know how I would behave, if I had lost a son in a distant foreign country, like she did. Overwhelmed with emotion, I told him that my family and I had lost tragically in the war, and that I, too, had shared the same feelings of his wife, of a mother who had lost her son, dying for a country of people that they barely knew, in this war against the communist invasion. More disheartening than all, was the feeling I had of losing my home country.
The man kept reassuring me that he and his wife understood, and excused himself, saying goodbye as he rushed to his wife at the stone bank while I kneeled to look for the row of letters bearing the name of my American brother-in-law, who was sacrificed in Vietnam.
I knew the letter W had to be somewhere at the bottom. But it took some time before I found the name of Mike Wright, my brother-in-law, lying modestly among several other names. Plain and simple on the grandiose wall, but heroically generous like his own life, and the country which cares for us now. I fell silently into reveries of a happy family and the thought of my husband. Mike's name is somehow still remembered and memorialized. But the name of my husband has been erased by the enemy. I thought of the Biên Hòa Military Cemetery, ravaged and forlorn since the communist takeover of South Vietnam in 1975, and how there are even wicked people today who want to rob the small parcel of land under which he now rests. I remembered the farewell bidding ceremony. It was a sweet moment of bitterly wept tears upon seeing his body in the still open casket. Amidst two rows of candles, he was honored with a higher rank among the solemn, weather-beaten faces of the soldiers forming the guard. After he was laid to rest in his mother's earth, I bade him farewell.
As I was deep in thoughts, my friends came calling my name loudly, chiding me for having left them alone to enjoy myself without them. They talked incessantly, pointing thoughtlessly at the strange unknown names, amusing themselves without feelings of compassion. Such is life. People quickly forget the past and live in the wake of the present. I feel as if I were the only one who likes to visit the past, turning back the clock for the sake of some old rivers. The locals, familiar with such a scene of noisy tourists in the streets, walking and laughing like ourselves, did not seem annoyed when we asked for the way to visit the Space Museum.
Around noon, as we were about to leave, I saw the old American couple again. I noticed something familiar in the man. And in the woman, who greeted me this time with a smile. Maybe the man had calmed her down. Losses and cruel fate can happen to anyone. We stayed in the corridor and chatted for a while. They told me that they would be leaving for Ohio tomorrow afternoon, to a farm near the border of Indiana. Of where exactly, and of what vast land, I could only vaguely imagine. I told them that I would be staying a few more days to visit other places before going home; getting lost in the oncoming stream of tourists, I shouted goodbye.
I rose early in the morning while everyone else was deep in sleep. Opening the door to go outside, I walked down Ohio Avenue alongside the riverbank. Without knowing it, I was heading towards the black granite wall again. Still and quiet in the early morning, there were already people at the foot of the wall. As I came nearer, I was pleasantly surprised to see the old man and woman there once again. Sitting on the low ground, she caressed the rows of names with her hand.
- Good morning, you are all here so early! I thought I was the only one strolling in this area.
The man answered calmly:
- We are going back to Ohio this afternoon. That's why we want to visit this place one last time.
The woman did not say anything, her hand kept glazing the stone's surface. I was surprised to see that her hand was resting on the row of letters beginning with W. I sensed something particular and abruptly asked the man the name of his son, and when he had died in Vietnam.
- His name is Mike Wright. He died in action in 1972.
He pointed toward the hand of his wife whose hand laid over the name I once had touched. It was the name of my brother-in-law, father of my sister's beloved son. I was speechless. How could life give us such a miraculous coincidence? To make sure that I wasn't dreaming, I asked a few more questions.
- Mike had a beard and was a jovial man, yes?
- I don't understand what you are saying. Of course, he was very young, and it's natural that he had a beard.
I looked at him and vaguely saw in him familiar features of Mike, his square chin and his long thick beard. The man went on with a sad tone:
- My wife was particularly sad. Actually, Mike's duty was over. He was due to go home, but he fell in love with a local woman there, and decided to stay for a further tour of duty. Unfortunately, his tour never ended …
Mike sent us a picture, announcing his marriage. It's been a long time, but we still keep the picture in our family album.
I wanted to tell him that I am the sister of that Vietnamese woman, but I still feared that I was mistaken. Who knows, there might be another Mike. I told him:
- More than thirty years ago, I also had a brother-in-law named Mike Wright. He was from the Mid-North of America somewhere. That's all I know. I don't know if it's your son Mike? I come from Texas to visit the capital, but specifically, to find his name on this wall.
He was caught by surprise and pulled his wife up to tell her about the important news. Visibly embarrassed, he asked me to sit down on the stone bank with him. His wife was speechless and patiently awaiting. He pressed forward:
- I am sure it's him. You see, there is no other Mike Wright here. Where is your sister now? I want to know about Mike's last days.
- My sister is still living in Vietnam. But I am sure she does not know any more than you do. Neither she nor I knew anything about the last days of my husband and Mike. We were first informed that both of them were missing after heavy waves of attacks from the enemy. Their bodies were found and retrieved a week later.
- Just as you said, I am sure it's Mike. When we went to view his body, we could no longer open the casket, due to sanitary rules.
- I have something important to tell you all. My sister has a son with Mike, but he never knew. When she found out that she was pregnant, he had already passed.
With bereavement, he uttered:
- Oh my God. Is that true?
- Yes, it is. You would recognize him as Mike's son if you were standing next to him.
- And where is he now?
- Still in Vietnam. As an Amerasian, he could have immigrated to the United States under the Resettlement Program. But he did not, because of the love that he had for his mother.
As if we were in a wondrous oblivion, we exchanged addresses and phone numbers. Even though all was well, I still wanted to make sure that the picture that the Wrights had mentioned, indeed, came from my sister. They would leave that afternoon, but come back again three days later by car, and this time, with their daughter, Natalie, Mike's sister, and her husband and two children, with the old picture in hand.
I was notified of their arrival at the hotel, and we decided to all meet at the park. The picture that was more than 30 years old was now stained. But time could not have wiped away all of the distinguishing features of my brother and sister. Holding the picture in my hand, I was jolted into the past. There they stood, embraced, arm-in-arm.
- That's my sister.
The Wrights were overwhelmed and ecstatic with joy. Everyone was elated. Mrs. Wright relaxed, and all of her ailments seemed to have disappeared. She asked me about flights to Vietnam, and about visiting her grandson. After all, they were blood.
I told the Wrights that I had phoned my sister, told her about the story, and that she too, was equally eager to meet them, and to look after them as if they were her own parents. Enraptured in delight, it was as if we were all in eternal spring time.
Thereafter, I spent many days and hours with the Wrights in Vietnam. It was an extremely busy time for me, but completely gratifying. I could not hide my emotions when I saw the Wrights break down in front of their grandson. After 30 years of built-up sorrow, they lost it in front of everyone, weeping in a courtyard in Vietnam. In fact, all of the curious neighbors came sneakily by to see what the commotion was all about.
My sister, widowed and left with a son to love in the wake of the Vietnam War, is now united with her parents-in-law in America, looking after them, and a corn farm in Ohio.


PATTY LUU NGUYEN
patty_n5@yahoo.com

Friday, June 11, 2010

Ngan Giot Le Roi


My Dung's Father

Nổi đau thương của dân tộc sau chiến tranh: Ngàn Giọt Lệ Rơi
Lê Quế Lâm
Chiều ngày 16 tháng Năm vừa qua, tại Little Saigon, nam California (HK) có buổi ra mắt sách Tâm Tư TT Nguyễn Văn Thiệu của T/s Nguyễn Tiến Hưng. Trong phần một quyển sách, tác giả trình bày những dữ kiện dẫn tới việc TT Thiệu từ chức. Đó là việc quân dân ở Cao nguyên và Vùng 1 di tản trong hỗn loạn vì hoảng sợ CS, sau khi TT Thiệu ra lịnh rút các Sư đoàn Bộ Binh, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến về phía Nam.
Cũng chiều ngày 16/5, tại San José, bắc California có buổi ra mắt sách Ngàn Giọt Lệ Rơi của bà Đặng Mỹ Dung (MD). Sự hoảng hốt của đồng bào miền Trung hồi giữa tháng Ba 1975 đã lan tới Hawai, nơi MD và đứa con trai 5 tuổi đang sống êm đềm với chồng là John Krall -Thiếu tá Hải quân HK. Một ngày nọ, MD nhận được điện thoại từ Paris của một người xưng tên Jean Sagan, tự nhận là bạn thân của cha cô tức ông Đặng Quang Minh (ĐQM), Đại sứ Mặt trận Giải Phóng MN tại Moscow. Ông bảo MD phải tìm cách đưa mẹ và gia đình rời khỏi VN. Ông cho biết, những người bạn của ba cô sắp tiến vào Sàigòn. MD hỏi tại sao những người bạn của cha cô vào Sàigòn mà lại đưa mẹ mình xuất ngoại. Ông Sagan trả lời: đừng thắc mắc dài dòng, hãy đưa mẹ cô rời Sàigòn ngay. MD hỏi ông ta làm cách nào vì không người Việt nào được phép rời đất nước trong lúc này. “Cô hãy nói với chồng đến gặp Đô đốc Gaylor Tư lịnh Quân lực HK ở Thái Bình Dương, ông ta là người tốt sẽ giúp đỡ”.
John không thể nhờ Đ/đốc Gayler can thiệp vì anh đã không báo thượng cấp sự việc cha vợ là cán bộ cao cấp của CS. Nay vì sự an nguy của mẹ vợ, John đã liều lĩnh đến Sàigòn mà không có phép của cấp chỉ huy. Sứ mạng được vợ giao gặp nhiều khó khăn, vì lẽ John không còn làm việc ở Nam VN. Một ngày nọ, từ bao lơn nhà mẹ vợ nhìn xuống đường, John phát hiện có kẻ lạ mặt, rõ ràng là cán bộ Việt Cộng lảng vảng trước nhà. Có lần họ gỏ cửa, mời bà đến chỗ hẹn để nhận tin tức chồng bà -ông ĐQM, nhưng bà từ chối. Những chỉ dấu đó cho thấy cá nhân bà đã bị theo dõi và nguy hiểm như ông Sagan đã nói. John phải làm liều, đến Tòa Đại sứ Mỹ báo cáo cha vợ là Đại sứ CSVN tại Moscow. Chi tiết trên được trình thượng cấp, nhưng họ không tìm thấy danh tánh ông đại sứ trong hồ sơ lưu trữ, có lẽ phần lớn đã bị hủy bỏ, phải chuyển về Tổng Hành Dinh CIA ở Langley, Virginia để kiểm chứng.
Trong lúc John nóng ruột về việc ra đi của mẹ vợ, thì bà lại lo sợ về sự rủi ro của con rể, John có thể bị VC bắt cóc. Bà điện thoại báo cho con gái “Chồng con đã làm tốt mọi việc, sự có mặt của nó ở Sàigòn không còn an toàn nữa, con phải khuyên chồng con trở về Hawai ngay”. MD liền gọi cho chồng, John bảo vợ phải trình bày ngay sự việc với Đ/đốc Gaylor. Cô điện thoại đến tư thất viên tướng chỉ huy cao cấp nhứt của Quân lực Mỹ ở TBD. Tùy viên cho biết ông đang ngủ vì mệt mõi sau gần 18 giờ làm việc liên tục. MD xin được nói chuyện với phu nhân đô đốc. Sau khi lắng nghe, bà nói “Tôi phải đánh thức, ổng không thể ngủ trước một sự việc như thế này?’ Mỹ Dung tường thuật cho ông nội dung cuộc điện đàm giữa cô với ông Sagan ở Paris. Hôm sau, một viên chức dân sự mà MD tin là người của CIA đến tiếp xúc với cô. Cuộc giao tiếp giữa cô và CIA bắt đầu từ khởi điểm này. Hai tuần sau, mẹ và hai em MD, là những người VN di tản đầu tiên đến đảo Guam.
Cuối tháng 7/1975, Đại sứ ĐQM hướng dẫn phái đoàn MTGPMN từ Moscow đến Nhựt tham dự hội nghị của tổ chức các lực lượng chống bom nguyên tử. Được tin này, MD cùng con đến Tokyo để gặp lại thân phụ sau 21 năm xa cách. Cuộc tái ngộ diễn ra trong nước mắt lẫn đắng cay. Ông Minh ôm con vào lòng, nước mắt dàn dụa “Con gái yêu của ba. Ba không có lời nào để nói hết nổi thương nhớ dành cho má con và các con”. Sau đó, nói đến cái chết của đứa con trai út Hải Vân, ông không dằn được sự tức tối: “Người ta nói với ba, nó bị Mỹ giết và chính những người đó đã lừa má con rời Sàigòn trước khi ba trở về. Ba không muốn nhắc đến Hải Vân nữa”. Song MD tìm cách giải tỏa định kiến của ông: “Liệu ba có tin vào sự thật hay chỉ muốn nghe những lời bịa đặt dối trá. Em con không bị ai giết cả, nó là phi công trong không lực VNCH, chết vì tai nạn trong khi huấn luyện. Ba nên tìm hiểu cái chết của em con từ chúng con, chớ không phải từ sự nói dối của chánh quyền cộng sản của ba”.
MD vuốt ve tự ái của ông “Con rất hãnh diện vì ba là một người Việt Minh, bị tù đày cũng vì lý tưởng VM, nhưng con không chấp nhận sự hiện diện của chánh quyền Hà Nội ở MN”. Ông tiếp lời “Rồi con sẽ còn tự hào về ba, tin tưởng ba sẽ làm hết sức mình vì đồng bào MN. Chúng ta không phải là người chiến thắng duy nhứt. Người Mỹ cũng thắng cuộc chiến này”. MD không hiểu thân phụ mình hàm ý gì nên cãi lại: “Chỉ một ít những tên hoạt động phản chiến, chớ không phải tất cả người Mỹ. Chúng con không vui vì đã mất MN”. MD phân trần “Không ai dám nói thẳng như thế với một đại sứ của MTGP nhưng con may mắn là con của ba, con lợi dụng lợi thế đó để tâm tình với ba”. Ông đồng ý vì mẹ con nó đã đồng lao cộng khổ với ông trong 9 năm kháng chiến, họ đã hấp thụ được ở ông lòng yêu nước. Nhưng giờ đây lòng yêu nước không còn giống nhau, song họ vẫn thương yêu và tôn trọng chí hướng của nhau.
Vì tình máu mũ, MD hỏi “Anh con giờ đây ra sao?” Ông đáp: “Nó không còn ở trong quân đội, nó làm việc ở đài truyền hình. Sau khi về Hà Nội, ba và anh con sẽ trở về quê hương”. Nghe nói “trở về quê hương” MD xót xa, cảm thấy có sự phân cách lớn trong tình cảm gia đình. Giờ đây lá cờ đỏ của CS đang tung bay tại Sàigòn. Đó là quê hương của ba cô, chớ nơi đó không còn là quê hương của mình nữa. Ông Minh nói tiếp “Khôi nhớ thương con. Con phải về thăm gia đình”. MD dứt khoát “Không, thưa ba. Con không thể tìm nguồn vui riêng khi đồng bào MN bị chánh quyền Hà Nội đối xử tàn tệ”. Ông đè nén tự ái để bày tỏ ước vọng với con“Ba muốn má con về sống với ba”. MD trả lời “Má con cũng không mong gì hơn là được sống bên ba”. “Vậy con ráng đưa má con sang Paris để gặp ba.
Trở về Hà Nội, ông ĐQM xin Tổng Bí thư Lê Duẩn cho phép ông được sang Paris công tác để thuyết phục vợ con trở về VN. Lê Duẩn lớn hơn ông Minh một tuổi, cả hai đều ở tù Côn Đảo từ 1940 đến 1945, sau đó tham gia kháng chiến chống Pháp đến 1954. Năm 1960 ông Duẩn trở thành Bí thư Thứ nhứt Đảng Lao động VN, còn ông Minh được cử làm Đ/sứ MTGPMN ở Moscow. Về phần Mỹ Dung, theo hướng dẫn của cha, cô liên lạc với Phan Thanh Nam (PTN) -quyền Đại sứ Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa MNVN ở Paris can thiệp với Bộ Ngoại giao Pháp cấp visa cho mẹ cô. Bà đã đến Paris kịp lúc với chồng vào tháng Chín 1976. Sau 22 năm xa cách, ông bà được hội ngộ ở tuổi cuối đời, MD mong muốn ba má được thoải mái trong không khí gia đình. Nhưng ông luôn bị nhân viên Sứ quán CS ở Paris bám sát. MD khéo léo gợi ý ông về hưu, ba mẹ hủ hỉ bên nhau trong tuổi về già tại một nước nào đó không phải VN cũng không phải HK, con cháu cũng tiện tới lui chăm sóc khi ông bà già yếu.
Ông phản đối ý kiến của con, cho đó là thái độ vô cùng ích kỷ. Ông phải trở về nước, hoàn thành nhiệm vụ giúp MN tái thiết, để phát triển vững mạnh trong một thời gian năm bảy năm, trước khi thống nhất với MB. Trong khi ông lạc quan ở Paris, thì số cán bộ MTGPMN sau chiến thắng 30/4/1975 đã thấy rõ thân phận của mình, như câu nói của người xưa “Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh” (Thỏ chết thì chó săn bị làm thịt) nên họ âm thầm tổ chức một bửa tiệc đơn sơ để tuyên bố giải tán MTGPMN, rồi ngậm ngùi chia tay. Đảng và chính quyền CS không thèm cử đại diện đến tham dự. Giờ đây họ chỉ xử dụng những phần tử nào tiếp tục con đường “chống Mỹ cứu nước” như PTN ở Paris.
Vụ án gián điệp Dragon Magic (Con Rồng kỳ diệu): MD được CS đón tiếp niềm nở. Nhờ đó cô có dịp đặt chân vào trụ sở MTGPMN và văn phòng bà Nguyễn Thị Bình trong thời gian diễn ra cuộc đàm phán Paris. MD đã tiếp xúc với Đại sứ Hà Nội Võ Văn Sung và phát hiện một số cán bộ CS nằm vùng ở Paris. Những ghi nhận về nhân sự và hoạt động của CSVN tại Paris đều được MD báo cáo cho CIA. Trong khi đó, PTN và các đồng chí ra sức “động viên” MD thuyết phục bà mẹ trở về nước. Y tuyên dương hành động trở về của bà là một chiến thắng lớn của CSVN, là cái tát vào mặt TT Gerald Ford và Chính phủ Mỹ đã cho CIA bắt cóc bà đem về Mỹ.
Sau lần cha mẹ gặp nhau ở Paris, Mỹ Dung vẫn trì chí tìm mọi cách để ông bà và anh em đoàn tụ. Cô giữ mối liên lạc với những người CS bạn của ba cô ở Paris, ông có uy tín lớn đối với họ. CS tin tưởng MD với tình thương cha sâu đậm, cô sẽ giúp họ thu thập những tin tức kỹ thuật và tình báo từ chồng cô. Lần hồi qua sự giao tiếp, cô được Đ/sứ Võ Văn Sung giới thiệu với Chủ tịch hội Việt Kiều yêu nước ở Mỹ và Đinh Bá Thi, đại sứ CSVN ở LHQ. Qua PTN cô gặp Trương Đình Hùng và một số cơ sở CS hoạt động ở Hoa Thạnh Đốn. Hùng nhờ cô chuyển một số tài liệu mật do Ronald Humphrey (một viên chức cao cấp của bộ Ngoại giao HK được phép đọc tài liệu mật) lấy trộm từ bộ Ngoại giao. MD trao những tài liệu mật này cho CIA để tráo thành tài liệu giả chuyển đến Tòa Đại sứ Hà Nội ở Paris. Humphrey có vợ là cháu của một nữ cán bộ CSVN, ông liều lĩnh hành động để Hà Nội sớm cấp giấy xuất cảnh cho vợ con.
Để lấy lòng MD, PTN giúp cô gởi quà về cha và anh cô ở Sàigòn. Cô nhét dấu đô la trong quà để giúp anh cô có tiền để vượt biên. Việc này được sự tán đồng của CIA, họ cũng muốn đón tiếp Khôi vào HK, vã lại cô còn giúp họ thu thập những tin tức về các hoạt động của Hà Nội ở Pháp và Mỹ. Tuy nhiên việc chuyển những tài liệu mật của Bộ Ngoại giao Mỹ cho CS liên quan đến gián điệp, đây là công tác quá nguy hiểm. Các viên chức FBI luôn cảm thấy bức rứt khi thấy MD đi xa vào một điệp vụ rất nguy hiểm mà cô phải thường xuyên đối đầu. Còn Bộ Tư pháp nhận thấy việc làm của Ronald Humphrey gây tác hại lớn cho nước Mỹ, ông ta đã thâm nhập rộng rãi vào các thông tin đầy nguy cơ đối với nền an ninh quốc gia..
Đối với FBI và Bộ Tư pháp, điệp vụ của MD lớn đến mức phải chấm dứt ngay một cách tuyệt đối. CIA phản đối mãnh liệt, họ không muốn việc làm của họ bị tiết lộ và MD sẽ không còn cơ hội cung cấp cho họ những tin tức quý giá của CS. Cuối cùng thẩm phán Bill phải đích thân giải quyết, ông nhận thấy tầm quan trọng của vụ án này và tìm mọi cách để truy tố kẻ phạm pháp ra tòa. Đó là vụ án gián điệp Dragon Magic. Giờ đây, MD phải đối đầu với một tình thế vô cùng nguy hiểm cho bản thân và gia đình, nếu cô ra tòa làm nhân chứng. Tuy nhiên, cô sẳn sàng với điều kiện là chính phủ Mỹ phải bảo đảm cho cha và anh cô được vào nước Mỹ, sau đó mới xúc tiến việc bắt giữ và truy tố Humphrey và Trương Đình Hùng. Yêu cầu của cô được Bộ Tư pháp chấp thuận. Sau đó, MD nhờ Đ/s Đinh Bá Thi chuyển thơ của cô đến Lê Duẩn cho biết mẹ cô không còn sống bao lâu nữa vì chứng bệnh nan y. Ước nguyện của bà là được gặp chồng lần cuối và đứa con trai thân yêu đã xa lìa bà trong suốt 23 năm dài.
Mười ngày trước lễ Giáng sinh 1977, ông ĐQM được phép đến Luân Đôn gặp vợ. Trong hai tuần ở Anh, ban ngày ông sống với vợ con, ban đêm ông phải về trụ sở đảng của ông. MD và em gái lợi dụng mọi cơ hội, trong thân tình phụ tử mong muốn ông về hưu, đoàn tụ với gia đình với lý lẽ: Ba đã cống hiến gần hết cuộc đời cho dân tộc. Nay đất nước đã hòa bình, ba 68 tuổi rồi, chúng con muốn ba về sống với má và chúng con. Ông thối thoát: ba đã chiến đấu 46 năm cho đất nước, giờ đây đất nước vẫn còn cần ba góp sức xây dựng, tái thiết MN trong một thời gian dài, để còn thống nhất đất nước. Ba không thể bỏ cuộc, đào thoát sống ở nước ngoài. MD trả lời con đâu có muốn ba đào thoát, chúng con chỉ muốn ba về hưu, chọn một nước trung lập nào ba thích, dành quảng đời ngắn ngủi còn lại để má và chúng con được cận kề bên ba. Đó là lẽ công bằng. Ông dứt khoát: ba là người VN, sanh ra ở VN và sẽ chết ở VN. Ba được đến đây gặp má và chúng con là vì đảng và nhà nước tin tưởng ba. Nay ba ở lại, ba sẽ mất hết uy tín, các con thương ba, chắc các con không để ba mất danh dự. Ý định bắt cóc ông ĐQM, đưa ông bà về Mỹ của MD không thực hiện được. Việc này chỉ làm ông đau khổ thêm ở tuổi già, ông sẽ tự tử.
Theo dõi cuộc đối thoại, mẹ MD thấy ai cũng có lý. Bà khuyên con đừng lên án CS để hành hạ ba con, vì ông là người CS. Ba đã nói với má, dù sống xa các con, song lúc nào ông cũng vẽ ra trong đầu hình ảnh đẹp về các con. Nay ông đã thấy các con hạnh phúc. Hảy để ba con được vui trọn vẹn trong những ngày đoàn tụ này. Đừng nói đến chánh trị nữa. Má con mình đã thương yêu, thì phải thương yêu cho trót, để ông làm hết bổn phận đối với đồng bào. Nghe lời mẹ, MD xin cha tha lỗi vì những ý nghĩ nông cạn của mình. Ông trả lời “ba luôn tha thứ, nhưng các con đừng bao giờ nhắc đến những ý nghĩ đó trước mặt má con, chỉ làm má con buồn”.
Ngày về nước, ông ôm bà từ giả, rồi lầm lủi bước thẳng ra xe, không can đảm quay lại nhìn người vợ thân yêu lần cuối. Sau đó Bộ Tư pháp HK tiến hành thủ tục bắt giữ và truy tố Ronald Humphrey và Trương Đình Hùng về tội gián điệp. Vụ án được tòa xét xử từ đầu tháng Năm 1978, MD tuyên thệ làm nhân chứng chính của chính phủ HK. Quyển A Thousand Tears Falling kết thúc tại đây.
Câu chuyện trong sách của bà Krall tức MD là sự thật, nhưng bản thảo không được CIA giải mật để sách được phát hành. Họ chỉ cho phổ biến những thông tin nào giúp làm sáng tỏ vụ án, song không phương hại đến nền an ninh quốc gia. Nổ lực đấu tranh để bản thảo được giải mật kéo dài quá lâu, người ta phải viện dẫn cả Tu Chính Án số 1 trong Hiến pháp HK về tự do ngôn luận. Vì thế 15 năm sau, sách A Thousand Tears Falling mới được xuất bản (1995). Còn ấn bản Việt ngữ Ngàn Giọt Lệ Rơi mãi đến 2010, nhân kỷ niệm lần thứ 35 ngày Quốc hận 30/4, mới chánh thức ra mắt đồng hương chúng ta. Đoạn cuối cuộc đời thân sinh của tác giả không được đề cập đến, kể từ buổi chia tay lần cuối với người cha mà cô hết mực kính yêu. Những tin tức sau này cho biết anh tác giả đã vượt biên tìm tự do năm 1986 và đã chết ở Mỹ năm 2006. Mẹ của tác giả cũng đã qua đời. Thân phụ MD chết vì chứng đột quỵ năm 1986. Ông Lê Duẩn cũng chết năm này. Đây là thời điểm CSVN chủ trương đổi mới để sống còn.
Đoạn kết cuộc đời song thân của MD cũng đau thương như thảm cảnh chung của dân tộc. Tác giả NGLR không muốn khơi lại nổi đau của gia đình. Nhưng câu chuyện trong NGLR là một phần của lịch sử dân tộc. Vì đất nước ngày mai, người viết ghi lại một vài sự thật của MN với những tâm tình mà ông ĐQM chia sẻ với vợ con…Để nói lên sự đau đớn cuối đời của một người vì yêu nước đã hy sinh cả cuộc đời vì lý tưởng CS.


Những trăn trở của người CS chiến thắng: Sau 45 năm đi làm cách mạng, ông ĐQM đã chiến thắng, giải phóng đồng bào MN khỏi trại trập trung khổng lồ của Mỹ Ngụy. Nhưng những người thân yêu nhứt đã rời bỏ quê hương, di tản sang Mỹ. Ngày trở về MN ông đã thấy xót xa, vợ con mình đã không còn tin ở mình thì làm sao đồng bào có thể đặt tin tưởng ở mình nữa.
Vì lòng yêu nước ông đã chiến đấu chống thực dân Pháp. Nhưng trong cuộc chiến chống Mỹ, đồng bào MN lại được Mỹ bảo vệ để có cuộc sống phồn vinh, điển hình là ngôi nhà khang trang của vợ ông ở Sàigòn. Các con gái ông có chồng Mỹ, chồng MD hết lòng thương yêu vợ nên đã liều lĩnh về Sàigòn cứu mẹ vợ, và đã sắp xếp để ông có dịp gặp lại vợ con. Nhờ đó họ có dịp nói với ông một sự thực: MN đang sống trong tự do thanh bình, CS lại gây ra cuộc chiến đẫm máu. Ngày CSBV tiến vào MN, đồng bào từ Bến Hải trở vào lũ lượt bỏ nhà, tìm mọi cách chạy trốn CS trong hỗn loạn. Sau 30/4/1975 đồng bào phải mạo hiểm vượt biển bằng thuyền con để lánh nạn CS.
Ông Minh bắt đầu ngờ vực về đảng CS của ông. Từ giả vợ con, ông về nước với ý nguyện tái thiết và phát triển MN vững mạnh trong một thời gian dài trước khi tái thống nhứt đất nước. Đó chỉ là ước vọng mà thôi. CS xâm lược MN, bần cùng hóa nhân dân và trả thù mà thôi. Hậu quả là MN lâm vào cảnh cùng khổ, lần đầu tiên trong lịch sử, đồng bào trong Nam bị đói, phải ăn độn bằng khoai bắp, bo bo. Mọi nhu yếu phẩm đều khan hiếm trầm trọng. Người dân MN bị áp đặt một chế độ độc tài chuyên chính còn tàn bạo hơn thời thực dân Pháp. Cả triệu người bị đưa vào các trại tù cải tạo chỉ vì tội bảo vệ tự do, kinh doanh làm giàu cho đất nước. Vợ ông Minh đã ra đi trước và cương quyết không nghe lời ông về nước. Nếu bà ở lại chờ ông về hoặc nghe lời ông hồi hương, thì giờ đây ông càng khổ tâm nhiều, làm sao có thể cứu được bà, một người đã phản bội cách mạng, phản bội chồng, cho các con lấy chồng Mỹ.
Đối với MN, ông bất lực không thực hiện được ước mơ cuối đời của mình. Đối với người vợ tào khang tấm mẳn, đã sát cánh bên ông trong những ngày kháng chiến chống Pháp gian khổ, rồi tần tảo nuôi con để ông đi làm cách mạng suốt cả đời. Bà chỉ xin ông một việc nhỏ: “Giúp con, thằng Khôi gặp lại tôi”. Ông cũng không làm được. Đứa con trai lớn đã sống bên ông từ lúc sơ sanh đến tuổi 50, từng du học ở Trung Cộng và Liên Xô, cuối cùng cũng đến chào từ biệt ông, lên đường vượt biên tìm tự do, để gặp lại mẹ và các em. Tại quê hương chỉ còn nấm mộ của đứa con trai út mà ông thường lui tới thăm viếng tại nghĩa trang Biên Hòa. Đồng bào MN còn tri ơn nó đã hy sinh vì tổ quốc, vì dân chủ tự do cho đồng bào; chớ có mấy ai nhớ đến một người CS như ông!
Nhớ lại ngày Lễ Giáng sinh 1977 ở Luân Đôn, ông kể cho các con nghe về quảng đời thanh xuân: Năm 16 tuổi, ba coi việc bảo vệ tổ quốc là một vinh dự lớn của thanh niên, nên đã tham gia cách mạng. Năm 26 tuổi ba gặp người con gái tâm đầu ý hợp là má con. Ông bà nội ngoại đều tán đồng, cho phép ba cưới má con. Từ đó đến nay, má con suốt đời chung thủy, hết lòng chăm lo cho các con, đúng như ý ba mong muốn.
Có thể nói, trong việc lập gia đình ông ĐQM có sự lựa chọn đúng. Nhưng trong việc phục vụ dân tộc, ông đã chọn lý tưởng sai. Cha mẹ vợ của ông là những người yêu nước không có khuynh hướng CS. Vì thương con rể, ông bà không tán đồng cũng không phản đối chí hướng của con. Sự mâu thuẫn này kéo dài qua ba thế hệ. Con gái và các cháu ngoại của ông bà không ưa CS nhưng lại hết lòng thương yêu chồng và cha của họ là CS. Hậu quả đắng cay là gia đình ly tán.
Ông ĐQM là người yêu nước tham gia đảng CS. Và khi CS chiến thắng, ông đem sự đau thương về cho vợ con nói riêng và đồng bào đất nước nói chung. Ông trở về trong trăn trở, lỡ khóc lỡ cười, “Mình là cộng sản hay là nạn nhân của cộng sản?” làm sao đồng bào hiểu được! Ông chỉ còn trông cậy vào con, có thể giúp ông giải bày nổi lòng. MD nói với Chủ nhiệm báo Việt Luận Úc Châu “Lần cuối cùng gặp ba tôi ở Luân Đôn, tôi có cho ba tôi biết là mấy chục năm nay tôi viết nhựt ký. Ba tôi có vẽ ưu tư rồi khuyên tôi nên viết thành sách cho con cháu trong gia đình biết về tổ tiên ông bà của chúng nó. Tôi nhớ hoài câu nói ngắn ngủi nhưng thành thật vô cùng của một đảng viên CS “Con viết dùm cho ba, hoàn cảnh chưa cho phép những người như ba viết hồi ký, chỉ có chánh phủ mới được viết hồi ký thôi con à”.
Quyển Ngàn Giọt Lệ Rơi đã ra mắt độc giả, MD đã “viết dùm” cho thân phụ, để bên kia thế giới ông nhẹ đi phần nào mặc cảm, và giúp những người CS còn sống thức tỉnh, hầu góp phần không muộn vào công cuộc phục vụ quê hương. Cuộc đời của những thành phần yêu nước bị CS lợi dụng, lừa dối là một bài học hữu ích, phải được truyền giảng sâu rộng.


NGLR chuyên chở những ý nghĩa gì?
Tại sao những người như ông ĐQM không được viết hồi ký mà chỉ có chánh phủ mới được viết? Điều này chứng tỏ ở VN không có tự do ngôn luận. Những người CS yêu nước mà không được viết, thì những người không CS làm sao có thể bày tỏ nguyện vọng của mình để xây dựng đất nước! Những người yêu nước viết hồi ký, họ sẽ nói sự thật, vì mục tiêu đấu tranh của họ trong sáng: vì quyền lợi tối thượng của dân tộc VN. Trong khi các lãnh tụ CSVN phục vụ Nga Tàu thì làm sao họ dám nói sự thật phủ phàng đó, nên phải gian dối và lừa gạt để khỏi mang tiếng phản bội dân tộc.
MD phát hành quyển NGLR đúng vào ngày Mother Day, có lẽ để tưởng nhớ người mẹ. Bà là mẫu người phụ nữ Việt Nam điển hình với các đức tính truyền thống “tam Tòng tứ Đức”. Lúc trẻ bà sống với song thân được giáo dục tốt, nên bà đã dạy các con biết cách cư xử ở đời sao cho phải đạo làm người. Khi “xuất giá tòng phu”, từ 18 tuổi đến gần 40 tuổi, bà luôn ở bên chồng đang chiến đấu chống thực dân Pháp. Năm 1954, chồng tập kết ra Bắc, bà thay chồng nuôi dạy các con. Đến khi CS chiến thắng trong đó có chồng bà, bà quyết định theo con. Đó có phải vì “phu tử, tòng tử” chồng đã chết nên phải theo con?
Chồng bà yêu nước nên chống thực dân đế quốc, để nước nhà được độc lập tự chủ, chớ không phải chống Pháp Mỹ để mang vào đất nước chế độ độc tài tàn bạo phi nhân của CS Nga Tàu. Vì vậy, bà coi như chồng đã chết từ thời điểm này. Sau đó hai lần gặp lại chồng, bà đối xử với ông cho trọn đạo nghĩa phu thê…Nhưng dứt khoát không trở về với chồng mà trong tâm tư bà coi như đã chết. Dù ông có quyền cao chức trọng, bà cũng coi mình đã trở thành góa phụ từ khi MN lọt vào tay CS. Bà là biểu tượng của người Việt Tự do ở hải ngoại, không bao giờ chấp nhận hòa giải với những người CS phản bội dân tộc.
Còn tác giả quyển NGLR? Trong lời nói đầu quyển A Thousand Tears Falling, cựu Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ -ông Griffin Boyette Bell đề cao “Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tình yêu nước Mỹ đã dẫn dắt cô trở thành nhân chứng then chốt trong vụ án gián điệp mang tên Con Rồng Kỳ Diệu (Magic Dragon) mà cô biết chắc chắn sẽ đặt cô và đứa con trai nhỏ của cô trước vô cùng hiểm ngay”.
Ngoài sự can đảm chấp nhận hiểm nguy, MD còn chấp nhận sự đau lòng của đứa con chí hiếu. Việc đứng ra làm nhân chứng của cô sẽ làm tiêu tan hy vọng của bà mẹ ngày đêm mong được gặp lại trưởng nam của bà. Hành động của MD còn tác hại đến địa vị của người cha ở VN. Ngoài ra cô còn phụ lòng CIA, cơ quan đã đáp lại yêu cầu của cô đưa mẹ và các em rời VN và sau đó tạo điều kiện giúp ba má cô gặp nhau hai lần. CIA sẳn sàng ủng hộ và mong muốn cô khước từ việc làm nhân chứng trước tòa án.
Vậy động lực nào khiến cô được đề cao là công dân Mỹ vĩ đại, có phải chồng cô là người Mỹ, cô có bổn phận phục vụ nhà chồng? Điều đó chỉ đúng một phần, theo suy nghĩ của người viết, vì cô là một người Mỹ gốc Việt -một người VN ngay thẳng. Sở dĩ cô hành xử như vậy, vì cô là một “người Việt Nam biết điều”. Chấp nhận hiểm nguy, hy sinh tình cảm cá nhân, chỉ với tấm lòng thành muốn được “đền ơn trong muôn một” đất nước HK vì những hy sinh của họ đối với dân tộc VN.


Bài học của người lãnh đạo CS: Tác giả NGLR không đề cập nhiều đến nhân vật có thể nói là “ly kỳ bí mật” Jean Sagan. Ông đã góp phần đưa câu chuyện riêng tư của một gia đình VN gắn liền với vận mạng dân tộc. Phải nhắc lại bối cảnh thời cuộc lúc bấy giờ để ôn lại lịch sử và vì đất nước ngày mai. Người viết liên tưởng đến buổi điều trần của Đại sứ Martin trước Tiểu ban Điều tra Đặc biệt của Ủy ban Liên hệ Ngoại giao Quốc tế Hạ viện HK ngày 22/1/1976. Một dân biểu đã nhắc lại lời tuyên bố của NT Kissinger ngày 5/5/1975 “cho đến ngày 27/4/1975 HK vẫn còn nhiều hy vọng CSBV sẽ không có ý chiến thắng về quân sự mà họ sẽ thương lượng một giải pháp chính trị với Dương Văn Minh”. Vị dân biểu đã hỏi Đ/s Martin “Sự kiện nào đã khiến HK nghĩ chuyện đó có thể xảy ra?
Đ/s Martin trả lời: Sở dĩ NT Kissinger tuyên bố như vậy trong cuộc họp báo ngày 29/4/1975 ngay sau khi HK di tản khỏi Sàigòn là vì “HK đã liên lạc với nhiều người trung gian đại diện cho MTGPMN và BV và có được một vị trí để trao đổi quan điểm qua lại”. Đ/s Martin còn tiết lộ ngày 5/5/1975 NT Kissinger “có nói là người Nga đã giúp đỡ chúng ta di tản người Mỹ và Việt, đồng thời họ cũng cho biết có một khả thể nào đó cho sự thay đổi về thương lượng chính trị cho hai bên”. Ông trình bày tiếp, hồi cuối tháng Tư 1975, VNCH đã nhanh chóng đáp ứng những đòi hỏi của CSBV như là điều kiện thương thuyết: TT Thiệu từ chức, TT Hương người kế vị cũng từ chức. Họ chỉ nói chuyện với DVM, đòi hỏi này cũng được thỏa mãn, DVM lên làm tổng thống. Sàigòn thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của phía CS. Tuy nhiên như NT Kissinger đã tuyên bố “vì những lý do gì không rõ, CSVN thay đổi ý kiến vào đêm 27/4 và thi hành kế hoạch quân sự của họ”. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa (Nguyên tác The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong) Viet Nam Bibliography xuất bản, 2003, Tr.278-279)
Qua dẫn chứng trên, người viết có thể suy đoán Sagan là một giới chức ngoại giao Pháp có cảm tình với MTGPMN, với nhân dân VN hoặc đó chính là cán bộ cao cấp của MTGP. Họ tạo ra mối ân tình giữa Đại sứ MTGP tại Moscow với HK, có thể sẽ giúp giải pháp kết thúc chiến tranh của HK thành tựu, qua sự hòa giải giữa hai bên MN theo tinh thần HĐ Paris 1973. Kế hoạch trên đã bất thành trong đêm 27/4/1975 vì chủ trương của Hà Nội là dùng bạo lực quân sự thôn tính MN. Mâu thuẫn cuối cùng trong chiến tranh VN vào hồi kết thúc cuối tháng Tư 1975 không phải giữa VNCH và MTGP mà là giữa MTGP với Hà Nội. Vì thế MTGP không thể tiếp xúc riêng với HK để kết thúc chiến tranh bằng giải pháp DVM. Để MTGP từ bỏ ý định này, Hà Nội sẽ không ngần ngại cầm giữ bà Đại sứ MPGP và cả con rể, để áp lực ông ĐQM. Đó là lý do tại sao ông Sagan yêu cầu MD phải đưa mẹ và em gái rời khỏi VN. Và đó cũng để trả lời thắc mắc trên của NT Henry Kissinger.
Kế hoạch hòa bình cho VN không tiến hành được, MN lọt vào tay CSBV. Song HK đặc biệt là Đ/đốc Gayler tin tưởng qua tình cảm giữa MD và người cha Đ/sứ MTGP có thể giúp hồi hương những tù binh chưa được CS phóng thích năm 1973 và số phận hơn 2000 quân nhân Mỹ còn mất tích ở VN. Đ/đốc Gayler là giới chức cao cấp nhứt của Mỹ đã tiếp xúc sơ khởi với số tù binh vừa hồi hương, có thể ông được báo cáo còn nhiều tù binh chưa được phóng thích. Cuối 1975, dân biểu Sonny Montgomery tiểu bang Mississippi đến thăm VN. Qua vị dân biểu này Hà Nội cho biết họ không còn giam giữ người Mỹ nào cả. Tuy nhiên HK vẫn hy vọng qua trung gian của MD, giới lãnh đạo Hà Nội có thể thương thảo với HK về việc thiết lập bang giao.
Năm 1977 khi TT Carter lên cầm quyền, HK tiếp tục phán với Hà Nội việc bình thường hóa bang giao, từ tháng 5/1977 tại Paris. Hà Nội vẫn khăng khăng đòi HK số tiền 3250 triệu đôla mà họ gọi là tiền bồi thường chiến tranh, coi đó là điều kiện tiên quyết trước khi đặt vấn đề thiết lập bang giao. Họ còn tổ chức gián điệp lấy cấp tài liệu mật của Mỹ và khuyến dụ bà ĐQM hồi hương để hạ nhục Mỹ. Trong khi Bắc Kinh sẳn sàng thiết lập bang giao với HK vì lợi ích chung của hai nước. Việc này được tiến hành ngay sau khi Hà Nội phát động chiến dịch đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp, đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi của hàng triệu người Việt gốc Hoa. BK coi hành động trên như cái tát đập vào mặt họ khi CSVN bày tỏ thái độ thù nghịch với TC, thành lập nước Cộng hòa XHCN/VN theo đúng khuôn mẫu LX. Tháng Chín 1978, Hà Nội ký Hiệp ước Hợp tác hữu nghị với LX. Đầu năm 1979, TC chánh thức thiết lập bang giao với HK, và hơn một tháng sau họ đưa quân vượt biên giới tấn công CSVN.
Ba thập niên sau, tháng 4/2010, ông Nguyễn Dy Niên cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hà Nội (2000-2006) bày tỏ sự luyến tiếc về việc đảng CSVN đã “thực hiện những chính sách mà đáng lẽ nếu tỉnh táo hơn, thì bây giờ VN đã mạnh lắm và cường thịnh lắm”. Ông nhận xét “Thời gian sau 30/4/1975 là cơ hội cực kỳ tốt mà chúng ta chậm khai thác. Mỹ muốn bình thường hóa quan hệ với ta. Nhưng rất tiếc là chúng ta còn dè dặt –cũng một phần do ràng buộc của lý luận- nên đã bỏ lỡ, không tận dụng được cơ hội ấy. Từ 1976 ta bắt đầu đàm phán với Mỹ, mình đưa ra cả một cục xương thì làm sao họ nuốt nổi, đó là bồi thường chiến tranh”. Đó là việc đối ngoại, ông Niên còn nêu lỗi lầm khác nữa là “thay vì khoan dung và khéo léo trong đối nội, chúng ta lại có chính sách như cải tạo công thương nghiệp. Những chính sách ấy từ khi áp dụng ở MB đã thấy trục trặc rồi, vậy mà vẫn tiếp tục thực hiện ở MN”. (www.nguyendynien/thoisu-dcpt)
Nghe cựu bộ trưởng Ngoại giao CSVN nói đến sự “ràng buộc của lý luận” và sự “tỉnh táo” khiến người viết nhớ buổi phỏng vấn của cô Ánh Nguyệt, đài RFI với một nhân chứng lịch sử lão thành là Giáo sư Vũ Quốc Thúc về quyển sách của ông vừa được xuất bản Thời Đại Của Tôi. G/sư Thúc nói rằng, những ai giữ mãi một ý kiến, không biết thích nghi trong việc ứng xử trước những hoàn cảnh đã thay đổi, thì chỉ có người điên mà thôi, nhẹ nhất là cố chấp, nặng hơn là cuồng tín.
Lý luận của những người CS, trước cũng như nay, không bao giờ thay đổi, thì làm sao họ có thể tỉnh táo được, dù Milovan Djilas -lãnh tụ CS nổi tiếng của Nam Tư đã thức tỉnh, từng cảnh cáo “Cộng sản là một thế lực suy tàn. Có người còn nói đó là một xác chết, nhưng là một xác chết có thể lôi ta cùng xuống mồ với nó”.
Lê Quế Lâm