Friday, April 23, 2010

THĂM LẠI MẬT KHU LÊ HỒNG PHONG ÐỂ THƯƠNG NHỚ BẠN BÈ MỘT THỜI CHINH CHIẾN CŨ

             Trên con đường thiên lý, ra khỏi Phan Thiết chừng 20 cây số về hướng bắc sẽ gặp núi Tà Dôn sát lộ và từ đó nhìn về hường biển, chỉ thấy mênh mông trời xanh cát trắng, tuyệt nhiên không có một chút gió dù rằng đại dương nằm cách không xa là mấy. Ðối với người Bình Thuận thì không ai xa lạ gì với cát, vì cát có mặt ở rất nhiều nơi trên quê hường miển biển mặn từ Cà Ná vào tới Phù My nhưng chính tại vùng này, cái mà khởi đầu từ năm 1945 trong chín năm toàn dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp, cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 trong cuộc chiến của người miền Nam, ngăn chận làn sóng đỏ cọng sản quốc tế, do Bắc Việt gây ra, thì không ai xa lạ gì với cái được gọi là mật khu Lê Hồng Phong.
 
            Ở đây, cát đã làm khổ con người vì cảnh khô hạn tận tuyệt đến nổi các nhà khoa học đã phải gọi đó là một trạng thái kỳ lạ nhất của vật chất, mang tham vọng kinh khủng là chinh phục con người, như một khúc biển tấu hoà âm bất tận, giống như cái hạnh phúc vô thường hay niềm đau không sao nói được của những người dân bị kẹt lại trong thiên đường này từ 1955-1975. Ðây là một vùng đất chết, đã được VC tuyên truyền là khu giải phóng, trong đó ngoài cái đói rách kinh thiên động địa do thiên nhiên và chiến tranh sắp đặt, còn có nổi vùi dập đọa đày trọn vẹn bởi những chủ trương chính sách triệt để sắt máu của VC trong việc không để bất cứ ai chạy lọt ra vùng tề.
 
             Trước năm 1975 ngưới dưới phố ngoại trừ là lính, ít ai dám hay héo lánh tới cõi thiên đàng này, nơi đã được nhà thơ Nguyễn bắc Sơn, một người lính từng vào khu Lê viết :
“..tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
còn ngại hành quân động Thái An
cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
mùa khô thiếu nước lính hoang mang..”
(Mật khu Lê hồng Phong-NBS).
 
            Sau ngày ngưng bắn, người dân ở đây nghèo vẫn đói,vì đất đai cứ tiếp tục bị cát sa mạc hoá cho nên chỉ trồng được dưa và dừa, trong khi đó thì thiên hạ bốn phương nưòm nượp kéo về Hòn Hồng, Hòn Rơm để thụ hưởng tiện nghi vật chất tại những nơi chốn y như cảnh thiên đàng hạ giới, được nhà nước liên danh với Tây Nhật và Việt cờ yêu nước XHCN bỏ tiền xây dựng kiếm lời. Câu chuyện người dân có nước mà phải mua nước nghe sao thảm thiết quá chừng, nhât là đối với những người từng bị bắt theo VC , khiến cho bao nhiêu ngàn người đã phải nằm xuống, làm cỏ lót đường cho thiên hạ vượt qua núi cát về phố lên cầm quyền trị nước. Nhưng dưới cái thiên đàng xã nghĩa trong 35 năm qua, với họ thì nên gọi đó là nổi bất hạnh hay may mắn ? khi những người khu Lê ngày nay tuy được sống nhưng đâu có được hồi sinh trong thế giới văn minh của loài người đang diễn ra từng phút giây tại Phan Thiết.
 
1-VỀ THĂM MẬT KHU LÊ HỒNG PHONG, SAU NGÀY NGƯNG BẮN :
 
            Theo tài liệu từ Ðại Nam Nhất Thống Chí của Sử quán Triều Nguyễn và Ðịa bạ tỉnh Bình Thuận được lập ra từ đời vua Minh Mạng, do quan Hộ bộ Ðào tri Phú làm đạt điền, thì mật khu Lê Hồng Phong của tỉnh Bình Thuận, khai sinh từ đầu năm 1945 cho tới cuối tháng 4-1975, nằm trọn trong Tổng Vĩnh An, huyện Hòa Ða, phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận xưa, lúc đó có 35 làng gồm 30 thôn, 5 xã, chiếm một diện tích 2171 mẫu 652 sào. Nhưng đất thực canh không có là bao, vì phần lớn đất đai toàn động cát, núi đồi thấp, rừng thưa và nhiều khe lạch , có thể gọi là hoang phế, ngoại trừ một phần nhỏ đất ở rìa các xã Khánh Thiện, Thiện Nghiệp, Thiện Khánh trong vùng Vị Nê, nhờ có nước nhĩ nên còn có thể lập vườn trồng đa số là dừa, trầu cau và vài loại cây ăn trái. Thời VNCH (1955-1975), mật khu nằm trong hai xã Lương Sơn và Nhơn Thiện thuộc quân Hoà Ða, các xã xôi đậu Long Phú, Hoà Vinh, Tùy Hòa ( Thiện Giáo) và Thiện Nghiệp (Hải Long).
 
             Riêng VC thì chia khu Lê thành 7 xã giải phóng, dù rằng toàn vùng có dân số chưa tới ngàn người, xã không có làng mạc, thôn ổ và cuộc sống vì hầu hết dân chúng bị lùa theo các đơn vị địa phương , du kích, tiểu đoàn 480,482 và trung đoàn chính qui 812 Bắc Việt của khu 7 VC. Sau ngày ngưng bắn 1975, mật khu gộp lại thành hai xã : Hồng Phong và Hoà Thắng thuộc huyện Bắc Bình.
 
            Ðây là một vùng đất coi như khô hạn nhất VN, nằm cao hơn mặt biển từ 150-200m nên không thể đào giếng được, dù có dùng khoang máy với các mũi khoang có độ dài từ 50-90m vẫn vô hiệu, cộng thêm là độ bốc hơi nước do sức nóng từ các động cát trùng điệp gây ra, cao hơn lượng nước mưa 1200 mm của khu vực này. Trừ xã Hoà Thắng sát biển lại may mắn có được nước ngọt từ hai bầu Ông và bầu Bà, còn lại thì toàn đồi cát và những mảng rừng trống mọc toàn các loại cây lá kim như ở các sa mạc tại Phi Châu, Mông Cổ, Ả Rập.. có điều các nơi đó trời còn cho dầu bán đồi lấy gạo và nước, còn ở đây chỉ có cát để trồng dừa, dưa và khoai mì nhưng rất cằn cổi, giống như con người.
 
            Về thú cầm chỉ độc nhất có dông là sống được trong cát. Vì nước quý như vậy, nên người dân ở đây có câu chuyện tếu là sính lễ mà đàng gái đòi đàng trai, đó là nước. Hiện nay qua các kế hoạch kiếm nước như khoan giếng, tới Bầu Trắng gánh nước về uống coi như thất bai. Từ đầu năm 1999, cơ quan UNICEF của Liên Hiệp Quốc đã cho dân tại đây vay vốn để đúc lu chứa nước mưa bằng xi măng theo kiểu Thái Lan, giá 1 cái là 250.000 tiền Hồ, tương đương 15 US, có dung tích 2m3/1 cái và gia đình có 6 người thì được cấp 5 lu. Ở đây mùa mưa bắt đầu từ tháng 7-11, nước mưa nếu có mưa chỉ dùng được trong hai tháng, còn thời gian nắng hạn vẫn phải mua nước từ các nơi khác chở tới, với giá 1 đôi 40 lít là 5000 tiền Hồ. Thôi thì có như vậy còn hơn không, và người dân ở đây cũng chỉ mong được như thế để bớt đi nổi nhọc nhằn phải đi xa trên 20 km gánh về một đôi nước hay quanh năm phải mua nước từ nơi khác chở tới, trong lúc túi tiền kiếm được rất khiêm tốn qua các thu hoạch nhỏ nhoi và cằn còm từ dừa, dưa cùng khoai mì mà thôi.
 
2-MẬT KHU LÊ HỒNG PHONG, THÀNH CÂY VÁCH CÁT CỦA VC :
 
            Theo các hồ sơ mật của Liên Xô, Pháp , Trung Cộng vừa được giải mật, thì Lê hồng Phong tên thật là Lê Huy Doản cùng với các bí danh khác như Hải An, Chayan và Litvinov, sinh năm 1902 tại Hưng Thông, Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Ðầu tiên Phong dấn thân vào con đường cứu nước trong mặt trận VNQPH do cụ Phan bội Châu lãnh đạo. Chính lý do này, nên mới đây CS Hà Nội bảo Phong là bạn của Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái, người đã ném bom Sa Ðiện tại Quảng Ðông năm 1924, để ám sát Toàn Quyền Pháp tại Ðông Dương là Merlin, khi Y đang buôn bán xương máu VN tại đây. Phong cũng được cụ Phan Bội Châu giới thiệu vào học trường Sĩ quan Hoàng Phố của THQDD nhưng sau đó phản bội bỏ theo Hồ, gia nhập Tâm Tâm Xã, một tổ chức của đảng CSQT do Hồ tùng Mậu và Lê Hồng Sơn lập tại Quảng Châu năm 1923, trước khi Lý Thuỵ ( Hồ Chí Minh) và Lâm Ðức Thụ bán đứng cụ PBC cho mật thám Pháp tại Thượng Hải để chia nhau tiền thưởng. Do trên Phong được sang Liên Xô học ở viện thợ thuyền phương đông duới bí danh Litvinov.
 
             Theo các tài liệu của Hứa Hoành và Chánh Ðạo, thì Hồ đã nhường Nguyễn Thị Minh Khai, một nử đảng viên cọng sản quốc tế đầu tiên, cùng Hồ học tại đây, để Phong lấy làm vợ. Bà này là chị ruột của Nguyễn thị Quang Thái vợ lớn của Võ nguyên Giáp, cũng là một đảng viên cọng sản bị Pháp bắt giam và đã chết thảm trong ngục năm 1942. Năm 1934, Lê hồng Phong nhận lệnh của Liên Xô, thành lập đảng CS Ðông Dương tại Thượng Hải, sau đó tại Mạc tư Khoa vào năm 1935 trong kỳ Ðại Hội 7 được bầu làm Uỷ viên dự khuyết trong ban chấp hành CSQT.
 
             Tháng 1-1940 về VN hoạt động, bị Pháp bắt tại Phan Thiết và chết ở Côn Ðảo năm 1942 còn vợ là Nguyễn thị Minh Khai cũng bị Pháp xử bắn tháng 8-1941 ở Hóc Môn, mà theo Hứa Hoành viết là do chính Hồ chí Minh đã chỉ điểm cho mật thám bắt, mục đích tiêu diệt hết cái đám cọng sản Nam Kỳ, để đảng bộ miền bắc nắm trọn quyền lảnh đạo.
 
            Do trên VC Bình Thuận mới đặt tên chiến khu tại địa phương là Lê hồng Phong. Xưa nay vào khu có nhiều đường. Trên quốc lộ số 1, có thể theo lối từ Sông Lũy hướng bắc hay men theo sườn núi Tà Dôn, nằm trong ranh giữa hai xã Long Phú (Thiện Giáo) và Nhơn Thiện ( Hòa Ða), thường được gọi là Cây Táo, ngả ba nhà ga Long Thạnh và đường nối QL1 với liên tỉnh lộ 8 gặp nhau tại huyện lỵ Ma Lâm ( Thiện Giáo). Ðây cũng là nơi trước năm 1970 từng xãy ra các cuộc đụng độ đãm máu giữa VC và các lực lượng Mỹ Việt, song song các vụ đặt mìn, đóng thuế xe đó, bộ hành xuôi ngược trên QL1. Cũng chốn này, nhà văn quân đội nổi tiếng của miền Nam là Y UYÊN, tên thật là Nguyễn văn Uy, sinh tại Bắc Việt, sĩ quan QLVNCH thuộc Tiểu Khu Bình Thuận, đã tử trận ngày 8-1-1969 tại đồn Nora ( Long Phú). Lúc sinh thời, Y Uyên có nhiều tác phẩm giá trị đã xuất bản như Bảo khô (1966), Tượng đá sườn non (1966), Quê nhà (1967), Ngựa tía (1968) và Ðuốc sậy (1969).. Riêng về hướng biển, trên tỉnh lộ 28 Phan Thiết-Mũi Né, đến xã tị nạn Thiện Nghiệp, rẽ theo đường vào Bàu Me, Bàu Tàn, Bàu Sen.. Xa hơn là Thạch Long tới Hòn Rơm, Hòn Hồng nằm trong xã Hoà Thắng, cửa khẩu giao thường và tiếp vận từ bên ngoài cho VC trong vùng.
 
            Kể lại chuyện mật khu Lê trong thời chiến tranh 1955-1975, không thể không nói tới chiến công của Trại Lực lượng đặc biệt Phi Hổ, trong đó nhà thơ Nguyễn bắc Sơn cũng đã có thời gian theo đơn vị này nhiều lần hành quân tại đây. Qua tài liệu của Trung Tá LLDB Trịnh văn Viễn hiện nay ở Texas Hoa Kỳ, từng là chỉ huy trưởng trại Phi Hổ thì trại này nằm trong xã Chợ Lầu cách thị trấn Sông Mao, một nơi có mỹ danh là Chợ Lớn Mới, vang danh một thời trước năm 1975 :
 
‘ mai ta đụng trận ta còn sống,
về ghé Sông Mao phá phách chơi
chia sớt nổi sầu cùng gái điếm
đốt tiền mua vội một ngày vui..”
( Mật khu LHP-NBS).
 
            Trại Phi Hổ nguyên là hậu cứ củ của Trung đoàn 42 bộ binh, đối mặt với mật khu Lê Hồng Phong VC. Tháng 2-1962, đại uý Trịnh văn Viễn, chỉ huy toán B3/LLDB đến công tác trong vùng, giữa lúc tình hình an ninh khu vực tồi tệ đến mức VC dám về các xã đông dân trong vùng hằng đêm để hát xướng, tuyên truyền và thu thuế, mặc dù tại đây có các đơn vị Bảo An-Dân vệ và Trung tâm huấn luyện Bảo An tại Sông Mao. Ðể ứng phó với tình hình, trại đã thành lập các đơn vị dân sự chiến đấu, ăn lương Mỹ, không có số quân do các thanh niên trong vùng, kể cả Phan Thiết tình nguyện,lên tới 1 tiểu đoàn , hành quân dưới sự hướng dẫn của toán B/LLDB.
 
             Sau này tiểu đoàn DS chiến đấu trại Phi Hổ được chính Bộ trưởng QP.Hoa Kỳ là Mc.Namara khi đến thăm Ấp chiến lược Lương Sơn, đã gọi đó là TD1 Nhảy dù LLDB do Ðại uý Trịnh văn Viễn chỉ huy tổng quát. Cũng kể từ đó, trại Phi Hổ trở thành tử thần của mật khu Lê, thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân thám sát, nhảy dù ngay chính trong lòng đất địch, gây bất an và thương vong thường xuyên cho các đơn vị VC trong vùng. Ngoài ra Trại còn phối hợp với Tỉnh Trưởng Bình Thuận lúc đó là Trung Tá Nguyễn quốc Hoàng, tổ chức thành lập các Trung đội DSCD tại các xã trong quận Phan Lý Chàm, Hoà Ða do Hoa Kỳ trả lương để họ tự bảo vệ các ấp chiến lược.
 
             Ðặc biệt nhất là tại xã Lương Son, đông dân, trù phú nằm ngay trên QL1, đối mặt vơi khu Lê, trại Phi Hổ đã tổ chức được một LL/DSCD trong đó có 1 trung đội nử biệt kích LLDB, chính lực lượng này đã góp công lớn trong việc tiêu diệt nguồn nước uống của mật khu, làm cho các đại đội địa phương VC phải rút đi nơi khác, chỉ lưu lại một trung đội hoạt động nghi binh mà thôi. Trước ngày binh biến 1-11-1963, trại Phi Hổ và TK Bình Thuận đã tổ chức một cuộc hành quân vào mật khu Lê, vưà tiêu diệt VC cũng đồng thời giải thoát số đồng bào còn bi kềm kẹt trong vùng. Tháng 3-1964, các toán LLDB hoạt động tại trại Phi Hổ được lệnh chuyển giao nhiệm vụ lại cho tiểu khu Bình Thuận, và mặt thật như ta biết là vùng này, ngoại trừ xã chiến lược Lương Sơn với sự hiện diện của TD-DSCD còn có an ninh, tất cả vùng từ Cây Táo tới Sông Lữy, Chợ Lầu rồi Vĩnh Hảo-Cà Ná trên QL1 trước năm 1970, đều là đất của CS , mặc dù sau khi LLDB rút, đã có các Trung đoàn 43 BB/Biệt lập hành quân. Sau đó là các Trung đoàn 44,53 BB và Thiết đoàn 8 kỵ binh của SD23 BB, kể thêm lực lượng Nhảy dù Hoa kỳ. Tình hình an ninh thật sự có được tại khu Lê và toàn tỉnh , bắt đầu năm 1970 khi đại tá Ngô tấn Nghĩa, trưởng phòng 2/QD2 về nhậm chức, cho tới lúc kết thúc chiến tranh vào cuối tháng 4-1975.
 
3-BẦU TRẮNG, CON DÔNG VÀ CÁ MÒI TRONG KHU LÊ :
 
            Nói tới mật khu Lê Hồng Phong, những VC về thành sau năm 1975 thường hay nói tới chuyện cá mòi của Bình Thuận. Ai cũng biết cá mòi cũng như cá nục và tất cả thủy sản trong vùng biển mặn là một ân điển trân quý của trời đất dành cho quê hương, giống như gổ súc, khoáng sản trên ngàn, khiến cho Bình Thuận nổi danh khắp nước trước đây cho tới thời VNCH là chốn rừng tiền biển bạc, nơi làm chơi ăn thiệt.
 
             Cá mòi trước năm 1954 đạt sản lượng mỗi năm từ 17.000 ố20.000 tấn. Ðang làm ăn ngon lành, không biết tự dưng biến mất hết ngoại trừ một số nhỏ còn lẩn quẩn sinh sống trong vùng biển cấm tại Hòn Rơm. Sau này các nhà khoa học giải thích, sở dĩ có hiện trạng trên vì cá mòi vốn sợ tiếng động, mà tại biển Bình Thuận từ 1955 về sau, ngành ngư nghiệp phát triển với các ngư thuyền toàn gắn động cơ, thay thế thuyền buồm xưa, cho nên cá mòi sợ di cư nơi khác, còn Hòn Hồng, Hòn Rơm thì không có ai léo hánh, vì vậy một số cá mòi về đây lập nghiệp .
 
            Về con dông, thổ ngởi của khu Lê, nay trong thiên đàng xã nghĩa cũng đã leo lên một địa vị lớn, chẳng những tại các nhà hàng ăn uống kháp vùng du lịch Cà Ná, Hòn Rơm, Mũi Né, Rạng, Ðồi Dương và thành phố Phan Thiết mà còn tiến nhanh tiến mạnh tới tận Nha Trang, Ðà Nẳng, Hà Nội và nhất là thành Hồ, với hổn danh KHỦNG LONG, được trân quý chẳng những là dân sành điệu địa phương mà còn có nhiều Tây Tà, Nhật Hàn và Việt Kiều khắp chốn. Khủng Long được bày bán quy mô trong đại tưu lầu Rồng Xanh trên đường Võ văn Tần gì đó ở Sài Gòn, với nào là dông nướng mọi, dông lột da chiên dòn,xào lăn.. Ðối với dân thành thị chưa quen, khi nhìn con dông còn sống ngọ nguậy , quả tình cũng ngán rợn nhưng bảo đãm đã nếm thử một lần thì tới già vẫn không quên vị ngọt đậm đà và dòn chắc của từng thớ thịt trắng ngần. Trước năm 1975 người ít và đủ đầy nên dông có hằng hà sa số tại các quận Bắc Bình Thuận nhưng đông đúc nhất là tại khu Lê, nơi có rừng cây thấp và sa mạc cát. Mùa nóng, dông ẩn trú kỷ dưới hang sâu chờ thời cho tới khi đầu mùa mưa vừa thắm đất, đủ làm cho cỏ chết hồi sinh, cũng là lúc nhà họ dông hoạt động, săn mồi , tỏ tình và trửng giởn. Theo từ điển thế giới động vật , thì Dông đực đặc biệt có tới hai món ăn chơi và Dông mái thì sinh nở vào khoảng thời gian mùng năm tháng năm, mỗi lần từ 4-10 trứng , dưới các hang sâu trên 1m. Dông ăn cây cỏ và các loại côn trùng như dế, cào cào, mối.. Dông đực còn gọi là dông thiềm thường nặng trên nửa ký, da có nhiều sọc đủ màu, còn con cái có nhiều chấm màu vàng, nhẹ hơn dông đực. Bắt dông cũng có nhiều cách nhưng thông thường thì đào hang, bẩy, cắm câu và đặt vòng gút. Thịt dông ăn ngon, hiền và các thợ nhậu có thể chế biến được nhiều món cũng rất khoái khẩu như bằm chiên chả, xào lăn, chiên bơ,nấu cà ri, trộn gỏi, nướng chao.. còn lính hay những người địa phương thì đơn giản hơn với món canh dông lá me non, dông xào đậu rồng, đậu ván, bông bí,mướp.. ăn cũng rất ngon miệng.Ngoài ra thịt dông nướng ,kẹp rau thơm chấm nước mắm nhĩ chanh ớt, cũng là thứ đưa cay đáng giá của lính trận hành quân trong lúc xa thành.
 
            Vào khu Lê đâu quên được BẦU ÔNG-BẦU BÀ,nằm cách QL1 tại Lương Sơn chừng 20 km, bao quanh bởi các động cát trắng cao vút. Theo bản đồ do Pháp ấn hành năm 1924 thì Bầu có tên là BÃI ÐỘNG nhưng dân chúng xưa nay vẫn quen gọi là Bầu Trắng hay hồ Ba Ðộng vì nằm giữa ba động cát lớn , thuộc thôn Bình Nhơn, tổng Vĩnh An, huyện Hòa Ða, phủ Hàm Thuận, giáp ranh với xã Hưng Nhơn, thôn Long Sơn và biển Ðông . Hiện nay sau thời gian dài bị cát xâm thực, diện tích hai bầu đã bị thu hẹp rất nhiều, chứ không còn giống như đã mô tả trong tài liệu Ðại Nam Nhất Thống Chí năm xưa ‘ Bầu Ông nhỏ hơn Bầu Bà, có chu vi 8 dặm, còn Bầu Bà rộng 12 dặm, hai bầu nằm cách nhau một đụn cát’. Trước có miểu thờ Bà Chuá động ngày nay đã biến mất, chỉ còn lại dấu vết cái nền mà thôi. Nước trong hai bầu ngọt và quanh năm mực nước không hao hụt, cân bằng hình như có mạch thông thương từ hai đáy. Ðối với Bầu Trắng, xưa nay vẫn có nhiều bí mật mà con người chưa giải thích nổi, chẳng hạn xuất xứ của bầu từ đâu mà có, là sông chết, biển cạn hay hồ tự nhiên ? và cuối cùng vì sao mà có vùng nước xoáy trên bờ biển Bình Nhơn, nay gọi là Hoà Thắng. Vũng nước này rất sâu, rộng tới 4m, từ trong lòng đất tuôn ra biển, được dân trong vùng gọi là CỬA LẤP của một con sông, đã bị cát động vùi dập, mà dấu vết còn lại là hai Bầu nước ngọt. Tại đây nhờ sự hiện diện của nước,nên có sự sống và cây xanh, dân quanh vùng ngoài nguồn nước, hải sản trong hồ còn trồng nhiều dưa hấu để ăn và bán hột. Ngoài ra còn có SEN mọc phủ kín hai mặt hồ, vì vậy người ta cũng gọi Bầu Trắng là Bầu Sen. Cây sen có tên khoa học là Nelumbium speciosum willd, có xuất xứ tại Ấn Ðộ, thuộc loại thủy sinh từ lá, bông, hạt và củ đều ăn được. Sen là một biểu tượng thiêng liêng trong các đại tôn giáo cuả Châu Á nhất là Phật giáo. Theo William viết năm 1998, thì đói với nhà Phật, sen được coi là biểu tượng cao quý nhất của sự tinh khiết, hoà bình, từ bi và vĩnh hằng vì :
“ trong đầm gì đẹp bằng sen
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn..”
(ca dao VN)
 
            Cho nên hoa sen được sử dụng nhiều nhất trong các loại hoa, dành cho mọi lễ hội của người Chấu Á, còn củ sen lại bán chạy trên thị trường. Tại Âu,Phi Mỹ và Úc châu, người ta dùng Sen để trang trí hơn làm thực phẩm, riêng các nước Trung cộng, Ðài Loan, Nhật, Ðại Hàn , Ấn Ðộ.. còn xử dụng sen làm y dược, chế biến các món tiềm thuốc bắc.. Tại VN ngày nay, Ðồng Tháp và Bình Thuận trồng nhiều sen và mỗi năm bán sang Nhật hơn 3 tấn củ sen muối, với giá cao nhất trên thị trường tính theo CIF là 343 yen/1 kg.
 
            Tại Bầu Trắng còn một món cũng không thể quên được , đó là món CHÁO TIỀU HOÀ THẮNG, nôm na là cháo Quãng Ðông của dân địa phương, quen dùng đãi bạn bè thập phương khi tới thăm khu Lê. Cháo nấu bằng các loại cá nhỏ như cá chỉ, cá trích hay cá ngân vừa đánh xong còn tươi, lạng hai bên lấy thịt, còn đầu và xương bỏ, đem ướp gia vị. Nồi cháo được nấu bằng lửa liu riu, không đặc mà cũng không lỏng quá và lúc nào cũng phải ở độ nóng. Bàn tiệc đơn sơ gồm có cá ướp, một tô đựng hành lá thái nhỏ, một chén tiêu bột, dĩa rau thơm, chén nước mắm nhĩ chanh ớt và nồi cháo trắng bốc khói nghi ngút. Cách ăn cũng giản dị, gắp cá tươi ướp bỏ vào chén, thêm hành, tiêu bột rồi múc cháo nóng đổ vào,nếu cần thì thêm chút nước mắm, cọng rau thơm, thế là vừa ăn vừa thổi, thỉnh thoảng nốc vào ngụm rượu nếp nguyên si tại bản địa, để khật khà quên tạm cuộc sống và kiếp người lận đận lao đao trong thời đại đô la và chứng khoán. Theo lời kể thì món cháo tiều này có xuất xứ từ các thương buôn người Hoa Nam, lưu lạc tới đây từ thế kỷ thứ XVIII trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh. Về sau do nhu cầu phát triển làm ăn, một số lớn đã dời về các đô thị nhưng cũng để lại một số hậu duệ và chính những người này tiếp tục phát huy cũng như lưu giữ món ăn của tổ tiên để lại.
 
4-RẠNG, MŨI NÉ, HÒN RƠM : CỬA NGỎ VÀO KHU LÊ :
 
            Ðường ra Rạng, Mũi Né, Hòn Rơm vào khu Lê ngày nay đã đổi khác , không còn là những thôn xóm chài lưới năm nao từ Rạng tới Mũi Né, êm đềm núp mình dưới rặng dưà xanh ven biển. Tất cả đã lột xác hoàn toàn kể cà con đường cái quan từ Phú Hài về Vị Nê luôn hành hạ con người vì cát. Bắt đầu từ tháng 3-1998, đường được mở rộng từ Phan Thiết ra tới tận khu du lịch Hòn Rơm. Trên bờ biển Hoà Thắng, nước luôn trong xanh in bóng núi màu hồng rất hùng vĩ, đứng sát mé nước, làm thành nhiều bãi bờ qua những cái tên ngộ nghĩnh như Bãi Ốc sóng biển lăn tăn, Bãi Xếp cây cồi bạt ngàn, Bãi Ghềnh bạc đầu sóng nước, Bãi Dơi đầy bóng dơi bay và xa xa Hòn Nghệ nhìn giống như thần Kim quy đang lặn hụp trên Ðông Hải trùng trùng. Ðường về thôn xưa rất đẹp, nhờ nguồn vốn của tây tà nên phẳng lỳ láng coáng, mở rộng có kè tại các động cát từ Rạng về Mũi Né, ven biển qua các di tích và thắng cảnh hửu tình như núi Cố, Bạch Hổ, đồi Bà Nài, Tháp Chàm Phố Hải, Lầu ông Hoàng, khu lăng mộ Nguyễn Thông, Ðá ông Ðiạ.
 
            .Chen lẫn trong màu xanh của biển, màu vàng trắng của cát là lớp lụa màu thiên thanh của những vườn cây trái, đồi chuối, rừng dừa.. gần như che mát lối đi và đặc biệt tạo thành một vương quốc cho các loài chim se sẽ, cu xanh ,sáo sành. Tại đây còn có loài Sóc xám, thú rừng trên lưng có sọc, ăn chuối, dừa, trái cây, sống từng cặp trên chọt ngọn dửa cao lắt lẽo, có nhiều tại thôn giữa xứ Rạng, khó ai bắt được dù bị treo giá cao, gần 1 triệu tiền hồ/1cặp. Còn Mũi Né trước năm 1975 là huyện lỵ Hải Long, xưa chỉ là một làng đánh cá nhưng phong cảnh lại rất hữu tình, từ ghềnh đá lên tới những núi cát lúc nào cũng muốn đẩy hết con người ra biển, để tự mình độc tài, độc đảng. Riêng Hòn Rơm trước năm 1975 thuộc vùng oanh kích tự do, chỉ mới được biết tới từ tháng 10-1995 khi VN có hiện tượng nhật thực hoàn toàn tại Tà Dôn và Mũi Né. Hòn Rơm trước thuộc Bình Nhơn, sau là Hoà Thắng, cách xã Thạch Long vài cây số, là cửa khẩu quan trọng để chuyển hàng tiếp tế từ Bắc Việt vào khu Lê cho cán binh bằng đường biển. Cát và đất núi ở đây đều màu đỏ làm cho con suối nhỏ cũng có tên là Suối Hồng.
 
             Hòn Rơm thật ra chỉ là một ngọn đồi thấp, nằm chơ vơ giữa một đồi cát nhô sâu ra biển, mùa mưa có chút nước làm cho cây cỏ hồi sinh, trái lại trong mùa nắng gắt, cỏ cây tàn lụn xác xơ, biến thành màu vàng , xa nhìn giống như đụn rơm khổng lồ, nên mới thành cái tên Hòn Rơm hay Hòn Hồng. Từ sau năm 1996, Mũi Né rồi Hòn Rơm bước vào kỷ nguyên mới của ngành du lịch. Cũng kể từ đó dôc theo con đường từ dốc lầu ông Hoàng ra tới Hòn Rơm mọc đầy các làng và khu du lịch từ giá bình dân tới hạng siêu sao đúng cở và món đặc sản du lịch trên cát” loại xe 2 bánh hay xe vùng Vịnh” khiến thiên hạ tứ phương ùn ùn kéo về du lịch. Tất cả tuỳ theo tiền, cao nhất cả trăm đô/1 ngày , còn bình dân thể thao thì ngủ lều ngoài bãi giá chừng 50.000 tiền hồ/1 ngày. Ngoài tiền ăn, ngủ và tắm biển, rong chơi trên cát, còn có tiền ăn nhậu hải sản quý như ốc, tôm, cua, cá và dông, tuy không giống ai nhưng mắc mõ dể sợ. Nay Bình Thuận lại mới thêm một món ăn mới “ MỰC MỘT NẮNG “, vì không còn mực tươi để mà ăn. Trước năm 1975, người Phan Thiết-Bình Thuận ăn mực khác bây giờ. mực tươi bắt được chỉ cần nhúng sơ chút nước sôi hay bỏ hấp trên nồi cơm nóng lá ăn ngay, đó là ngoài biển. Còn về nhà hay trên bến, mực chỉ cần làm sạch hắp sơ, rồi chấm với mắm gừng hay mù tạt.. Theo Nguyễn thị Huệ, chủ vựa cung cấp món “MỰC MỘT NẮNG” lớn nhất tại Phan thiết hiện nay, thì mực phải tươi và tuỳ loại, chẳng hạn như MỰC ỐNG chỉ phơi khô, MỰC NANG xuất khẩu để chế biến món Sasimi của Nhật, còn MỰC LÁ mới chính là nguyên liệu làm mực một nắng, món ăn thời thượng ngày nay tại Phan Thiết-Bình Thuận. Xuất xứ món ăn này là chủ nhân Quán Cây Bàng ở Rạng, chuyên bán các đặc sản của Phan Thiết như gõi cá mai, cá suốt, cháu hàu.. Mực một nắng được chế biến từ mực tươi mới dánh về, làm sạch rửa qua nước lợ rồi đem sấy ở nhiệt độ 43 độ C chừng 4-5 giờ, rồi bỏ vào tủ đá, hoặc đem phơi nắng phơi sương một đêm, mục đích làm cho con mực vẫn còn tươi.
 
             Hởi ơi mực một nắng hay gì gì chăng nữa đang xãy ra tại quê hương ngày nay cũng chẳng qua là một khúc tận tuyệt của xứ biển, bởi trong đó có chứa cái mặn mòi của biển, cái sương giá máu mắt cũa ngư dân và nổi vất vả trùng trùng mà kiếp người dân biển nghèo cực đã gánh chịu tự bao đời.
 
            Sinh và lớn lên tại Phan Thiết bao nhiêu ngày, rồi phải xa quê hương không hẹn ngày trở lại, thì làm sao ai chẳng nhớ và càng nhớ hơn lúc nữa đêm ngồi vơ vẫn nghĩ tới những bạn bè đã nằm xuống tại đây trước năm 1975 hay sau này khi vượt ngục VC tại Lương Sơn ..
 
 
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2010
Mường Giang

No comments: