Tuesday, May 18, 2010

Huyen Thoai ve Chien Tranh Viet Nam

Ðại Sứ John Negroponte, cựu phụ tá bộ trưởng Ngoại Giao Mỹ đã đặt ra một lô những chữ “Nếu” cho 150 người trong cử tọa, nhân phát biểu tại cuộc hội nghị được tổ chức ở Câu Lạc Bộ Army Navy Club tại Washington, nhằm lượng giá về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 35 năm sau khi chiến tranh kết thức.


“Nếu mà Tổng Thống Roosevelt còn sống thì nước Mỹ không ủng hộ cho người Pháp trở lại Việt Nam? Nếu mà chúng ta biết rõ hơn về chuyện xích mích giữa Liên Xô và Trung Quốc? Nếu mà Tổng Thống Ngô Ðình Diệm không bị ám sát? Nếu mà Tổng Thống Nixon không bị dính líu vào vụ Watergate?” Nhưng vì do những cái trớ trêu bất thường của lịch sử đại loại như vậy mà sự việc đã xảy ra khác hẳn đi.


Năm diễn giả chính yếu khác và 10 tham luận viên, cả người Việt và người Mỹ, đã phân tích những trận chiến mà họ coi là khúc quanh của cuộc chiến tranh Việt Nam.


Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, những trận đánh lớn ở Huế, An Lộc, Quảng Trị; Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Hiệp Ðịnh Hòa Bình Paris, và những bài học đã thu lượm đã được mổ xẻ trong các buổi thảo luận trong từng nhóm. Chủ ý của các tham luận viên rõ ràng là nhằm phục hồi lại danh dự cho Quân Lực Miền Nam Việt Nam.


Tết Mậu Thân 1968:


Tiến Sĩ Erik Villard, sử gia, là diễn giả đầu tiên đã trình bày về cuộc tấn công này. Ông nói, “Ðây đích thực là một cuộc nội chiến tại Nam Việt Nam giữa người quốc gia Việt Nam với quân Cộng Sản xâm lăng từ miền Bắc. Ông mô tả trận chiến lừng danh này với quy mô và sự phức tạp trong kế hoạch của Việt cộng và sự phản công lúc đầu coi như tuyệt vọng, mà lại rất thành công của phía miền Nam và Ðồng Minh. Nhưng ông nói, “Bi đát thay cái sự thắng lợi này lại bị thế giới coi như là một thất bại.”


Ðại Tá Trần Minh Công bổ túc thêm. Ông nói đến 50 phần trăm quân đội VNCH được nghỉ phép ăn Tết giữa lúc quân Cộng Sản tấn công. Ông ra lệnh cho tiểu đoàn cảnh sát tiến chiếm lại Dinh Tổng Thống ở Saigon, trong khi các đơn vị khác thì hợp nhau lại để tái chiếm những đồn bót vừa mới bị Cộng quân chiếm giữ.


Tờ tuần báo Time tường thuật, “Quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải gánh chịu áp lực nặng nề lúc khởi đầu với sự dũng cảm và mau lẹ mà hầu như ít có ai lại có thể ngờ được.” Cố Ðại Sứ Ellsworth Bunker nói, “Chính phủ đã không sụp đổ. Trái lại, họ đã phản ứng mạnh bạo, mau mắn và quyết chí. Chính quyền đã tổ chức sự phục hồi với nỗ lực lớn lao.”


Ðại Tá Công phàn nàn, “Ấy thế mà giới truyền thông người Mỹ lại coi vụ Tết Mậu thân là 'khởi sự cuộc chấm dứt chiến tranh' Việt Nam (The beginning of the end of the Vietnam War).”


Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, học giả và cựu giảng viên tại Ðại Học George Mason kể lại, “Trong dịp tấn công Tết Mậu Thân, cố đô Huế là nơi duy nhất quân Cộng Sản đã thiết lập được một chính quyền dân sự. Họ phát động cuộc tàn sát, giết hại hàng ngàn người mà họ gọi là 'kẻ thù của Cách mạng' trong suốt 25 ngày chiếm đóng thành phố vào tháng 2, năm 1968.”


“Họ tàn sát đến 6,000 thường dân vô tội, bất kể đó là giáo sư đại học, giới kinh doanh, phụ nữ, người già và cả đến trẻ em, tạo ra viễn cảnh kinh hãi của chế độ Cộng Sản. Hàng ngàn người bị coi là ‘tay sai Mỹ ngụy’ đã bị tra tấn, giết hại và cả bị chôn sống do lệnh của Tòa Án Nhân Dân Việt cộng mà gồm những cán bộ và dân làng được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.”


Vẫn theo lời Giáo Sư Bích, “Vụ thảm sát ở Huế tương tự như 'cánh đồng giết người' (killing fields) dưới chế độ Pol Pot ở Cambodia, hay ‘lò thiêu người’ hồi Thế Chiến Thứ Hai của Ðức Quốc Xã.”


Hội nghị cũng phản ánh quan điểm của các chuyên gia khác. Ông Lewis Sorley, sử gia chuyên về chiến tranh Việt Nam và là giáo sư tại West Point và tại Học Viện Chiến tranh của Lục Quân Mỹ, nói là hồi năm ngoái tại Ðại Học Texas Tech rằng những cái nhìn lệch lạc phát xuất từ chiến dịch bôi nhọ toàn thể chế độ miền Nam Việt Nam và cuộc chiến đấu lâu dài và khó khăn của họ, cho đến lời tố cáo vô liêm sỉ của Jane Fonda cho rằng, “Các tù nhân Mỹ khi hồi hương mà đã tố cáo bị người Cộng Sản tra tấn hạ nhục đều là những 'kẻ nói dối' và 'giả hình'.”


Cuộc tấn công dịp Lễ Phục Sinh 1972:


Trong ba tháng mà tỉnh An Lộc bị vây hãm vào tháng 4, 1972 cũng bị giới truyền thông Mỹ bóp méo sự thật. Tiến Sĩ James Willbanks cho cử tọa thấy là, “Kết quả là cả hai bên đối chiến đều bị tổn thất kinh hoàng, nhưng cuối cùng thì quân đội kiên cường của miền Nam đã kiểm soát được thành phố, sau khi kết thúc trận chiến đẫm máu.”


Ðại Tá Phan Văn Huấn, chỉ huy Lữ Ðoàn 81 Biệt Cách Dù và Trung Tá Nguyễn Lân phụ tá chỉ huy, kể lại họ đã đẩy lui được quân đội Bắc Việt và ngăn chặn hướng tiến công của Cộng Sản vào thủ đô Saigon, lập ra được vòng đai phòng thủ vững mạnh chống lại quân số lớn hơn hẳn của địch quân. Họ đã cầm cự được cuộc tấn công liên tục của Bắc quân, đẩy lui được ba vụ xung phong tấn công tới tấp từ phía địch quân.


Trận chiến ở Quảng Trị:


Ba nhân vật sau đây thảo luận về trận chiến này. Ðó là Ðại Tá Phạm Văn Chung, Ðại Úy Nguyễn Việt và ông Dale Andrade, một sử gia và tác giả của ba cuốn sách về cuộc chiến tranh Việt Nam. Các vị này tường trình rằng Sư Ðoàn 308 và hai trung đoàn độc lập của quân đội miền Bắc vượt qua khu vực phi quân sự để tiến vào miền Nam, trong khi Sư Ðoàn 304 thì từ phía Lào ở phía Tây cũng xâm nhập vào. Ðại quân đó quét sạch cả hệ thống căn cứ nhỏ của quân đội miền Nam có nhiệm vụ canh giữ quốc lộ 9, và tiến chiếm vùng thung lũng Quảng Trị.


Mục tiêu của giới lãnh đạo Hà Nội là “tạo được một chiến thắng quyết định trong năm 1972 và bắt buộc cho đế quốc Mỹ phải thương thuyết việc chấm dứt chiến tranh từ vị thế của kẻ thất bại.” Quân đội miền Nam bị phân tán và rút lui, nhường đất cho Cộng quân. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, một tướng lãnh xuất sắc của miền Nam đã được nắm quyền chỉ huy và lần hồi đã tái chiếm được miền Nam Quảng Trị và cả Cổ Thành.


Quân đội Bắc Việt bị thương vong đến 100,000 quân là phân nửa tổng số lực lượng của họ, kể cả 40,000 quân bị tử trận, và còn bị mất phân nữa số chiến xa và trọng pháo. Kết quả là chính Tướng Võ Nguyên Giáp, người anh hùng đã đánh thắng người Pháp ở Ðiện Biên Phủ, đã bị loại ra khỏi vị trí chỉ huy quân đội Bắc Việt. Kết quả này đã không được giới truyền thông Mỹ tường thuật chính xác.




Có một bài học nào được rút ra chăng?




Nhiều người tin rằng người Mỹ hiểu biết rất ít về cuộc chiến tranh Việt Nam, mặc dầu nó đã chấm dứt trên ba thập niên rồi. Trong một bài báo nhan đề “Lịch sử chứng minh kẻ thắng trận ở Việt Nam đã sai lầm” được đăng tải trên Báo Wall Street vào tháng 4, năm 2000, Nghị Sĩ James Webb đã liệt kê giới truyền thông báo chí, giới hàn lâm đại học và Hollywood là những nhóm “đã có trách nhiệm rất lớn cho thấy cuộc chiến được tưởng nhớ là vừa không cần thiết và vừa không thể chiến thắng được.”


Hàng ngàn bài báo, cuốn sách, bản phúc trình quân sự, bài nghiên cứu trận đánh và các hồi ký về cuộc chiến tranh 10 năm vẫn tiếp tục không bị đem ra thách đố hay được chấp nhận như là những sự kiện mà không hề có sự phân tích chiều sâu trong giới sử gia. Người quá cố Douglas Pike là nhà phân tích chính trị đã viết rất nhiều về Việt Nam, đã bình luận rằng, “đó là những người bị lừa bịp bởi giới ký giả ngu dốt của loại truyền hình thương mại và giới hàn lâm theo phe tả thiên lệch về một sứ mệnh ý thức hệ.”


Ông George Veith là một tác giả chuyên viết về Việt Nam, mà hiện đang hoàn thành cuốn sách - Tháng Tư Ðen: Cuộc Thất Trận của Nam Việt Nam1975 - nói về những huyền thoại về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam.


Ông nói Hà Nội trông đợi chánh quyền Nam Việt Nam sụp đổ một khi người Mỹ rút khỏi năm 1972. Nhưng sự việc đó đã không xẩy ra, và quân đội Việt Nam lại mỗi ngày một mạnh hơn lên, như được chứng tỏ trong trận An Lộc và Quảng Trị vừa nêu trên. Thế rồi, từ năm 1973 cho đến tháng 3, năm 1975, quân đội miền Nam đã gây những thất bại nặng nề cho quân đội Bắc Việt, khiến cho Tướng Võ Nguyên Giáp bị mất chức. Ông Veith xác tín rằng quân lực Việt Nam Cộng Hòa không hề yếu kém và hèn nhát như giới truyền thông báo chí Mỹ thường tô vẽ ra.


Vì coi việc Tổng Thống Nixon từ chức như là một dấu hiệu rằng người Mỹ sẽ bỏ rơi miền Nam, nên Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Hà Nội mới quyết định 'giải phóng' miền Nam trong thời hạn 2 năm 1975-76 bằng cách tung ra những cuộc tấn công đại quy mô.


Họ đã vi phạm Hiệp Ðịnh Ðình Chiến Paris mà họ đã ký kết với Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam. Khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam năm 1972 và Quốc Hội cắt hết viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam vào tháng 3, năm 1974, ông Veith nói, “Với những bất lợi về địa lý, quân đội miền Nam không thể nào ngăn chặn được một cuộc tấn công đồng loạt trên khắp cả nước mà không có sự trợ giúp của Không Lực Mỹ.”


Tham nhũng có phải là nguyên nhân gây ra sự sụp đổ của Nam Việt Nam không? Ông Sorley thuật lại lời của Tom Polgar, giám đốc CIA ở Saigon lúc bấy giờ biện luận rằng, “Nước này có thể tồn tại được dù với một chánh quyền thối nát, y như trường hợp của Phi Luật Tân, Nam Hàn, Thái Lan hay bất kỳ nước nào.” Trong một nước mà người công chức không được trả lương phải chăng, thì đều có nạn tham nhũng là chuyện thường xẩy ra trên đời.” Ðại Tá William Legro, tùy viên Quân Sự ở Việt Nam cũng đồng ý như thế, ông nói, “tham nhũng không phải là nguyên nhân làm sụp đổ mà chính là sự giảm bớt đến độ zero mọi viện trợ của Mỹ mới là nguyên nhân. Chúng ta đã làm cái điều tai hại khủng khiếp đối với người miền Nam Việt Nam.”


Cựu đại sứ tại Mỹ Bùi Diễm là một trong những người đứng ra tổ chức cuộc hội nghị này cũng than phiền về việc Quốc Hội Mỹ cắt hết viện trợ. “Tôi không thể không giận dữ trước sự việc bất công vì dự luật viện trợ quân sự bị bác bỏ tại Quốc Hội. Vấn đề chính yếu trong tâm trí tôi là số phận của hàng triệu người dân miền Nam Việt Nam phải chịu đựng như thế nào một khi Quốc Hội đã quyết định.”


Ông Sorley đưa ra những con số như sau, “Tại Việt Nam, có thể có đến 65,000 người bị hạ sát bởi tay của những người tự nhận là quân giải phóng và có đến 250,000 người nữa bị chết trong các ‘trại cải tạo’ tàn bạo. Hai triệu người bị bứng ra khỏi quê hương và tạo thành lớp người Việt Nam tại hải ngoại.” Một phần tư triệu thuyền nhân đã bỏ mình ngoài biển khơi.


Ông Hoàng Ðức Nhã, nguyên tổng trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi là người phụ trách việc đúc kết của đại hội nói, “Cuộc chiến Việt Nam được nhìn qua lăng kính của người Mỹ khiến làm biến dạng méo mó sự thể tìm hiểu tại sao người cộng sản chiến thắng và người quốc gia thua trận. Ông lưu ý cử tọa rằng, trong khi còn nguy khốn, miền Nam đã cố gắng xây dựng một chế độ dân chủ với một nền kinh tế lành mạnh, dựa trên nền tảng luật pháp. Ðó là một cố gắng ít được nghe thấy trong một nước đang có chiến tranh.”


Ông nói tiếp, “Hơn thế nữa, ngay cả trước tình thế phải chiến đấu liên tục, chánh quyền cũng cho thi hành một chiến lược phát triển ba mặt về phát triển nông nghiệp, kỹ nghệ sử dụng nhiều lao động, và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm 1974, dầu khí đã được tìm thấy ngoài khơi bờ biển miền Nam. Ấy thế mà những thành tựu như thế lại ít được ai công nhận.”


Tiến Sĩ Rufus Philipps, tác giả của cuốn sách mới đây mà được ca tụng rất nhiều - Why Vietnam Matters - đưa ra nhận định trong một tài liệu được chuẩn bị riêng cho Hội nghị. Ông trích dẫn câu trả lời của Tướng Maxwell Taylor cho câu hỏi tại sao chúng ta thất bại tại Viêt Nam? Vị cựu đại sứ tại Việt Nam nói vào hồi cuối cuộc đời của mình, “Chúng ta đã không hiểu kẻ địch, không hiểu người bạn đồng minh Nam Việt Nam, và cũng không hiểu chính chúng ta nữa. Chúng ta đã không hiểu làm sao mà đối phó với cái loại chiến tranh đó cho đến khi quá muộn. Từ lâu, giới hoạch định chính sách cao cấp ở Washington và giới lãnh đạo chóp bu của chúng ta ở tại chỗ, với lòng tự ái được thổi phồng bởi nghề nghiệp đầy hứa hẹn trong những nỗ lực của họ, thì họ lại ít có sự bao dung đối với những quan điểm khác biệt được dựa trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn không đồng ý với họ.”


Cuối cùng, Tiến Sĩ Phillips có lời khuyên, “Người Mỹ chúng ta có một nhu cầu thiết tha là phải tìm hiểu các người bạn mà chúng ta muốn giúp. Chúng ta không thể áp đặt những giải pháp đã được làm sẵn tại Mỹ (made-in-America), nhưng phải cùng làm việc chung như người đồng sự kể như là anh em với nhau, để chúng ta giúp các bạn đó tìm ra các giải pháp riêng của họ. Ðó là những bài học chúng ta không được luôn luôn chú ý tiếp thu và không chịu học.

Jackie Bông

No comments: